Thứ Hai, 30 tháng 8, 2021

Vườn Rau Cây Thuốc

 Vườn Rau Cây Thuốc

Sau khi anh Sáu về hưu, anh chị rất thong dong, hay đi thăm bà con, bạn bè. Tháng trước, anh chị lái xe sang tiểu bang North Carolina thăm một người bạn thân lâu ngày chưa gặp. Vợ chồng người bạn này có một mảnh vườn trồng rau và một số cây thuốc sau nhà. Trong vườn có rất nhiều rau thơm, gia vị cho việc nấu nướng thức ăn và trị bệnh: hành, ngò, sả, ớt, tỏi, rau quế, rau răm, rau om, húng lủi, tần ô, tần dầy lá, giấp cá, ngò gai, thì là, kinh giới, rau má, tía tô, chanh, đậu bắp, bạc hà, gừng, riềng, rau sam, rau đắng, rau ngót, mồng tơi, rau dền, rau đay … Anh chị bạn hãnh diện với khu vườn vì lúc nào cũng có sẵn rau thơm, gia vị để ăn. Anh nói ăn hột vịt lộn mà thiếu rau răm thì chán lắm. Phở mà thiếu rau quế, ngò gai thì mất ngon. Chả cá cần thì là, thịt vịt cần gừng, bún riêu cần kinh giới… Anh chị cũng khoe rau vườn nhà anh là organic vì không có chất hóa học nào dính vào. Anh chị quan niệm ẩm thực không những cần cho dinh dưỡng mà còn có tác dụng ngừa và chống bệnh nữa. Vì các loại rau đều có phytonutrients chống oxyt-hóa nên sẽ làm chậm tiến trình lão hóa. Mỗi sáng, chị hái một nắm nhiều thứ rau khác nhau, để vào máy xay (blender) cùng với cam, chuối, táo hay những trái cây tùy theo mùa. Sau khi xay nhuyễn như smoothie, mỗi người uống một cốc. Chị cười hiền hòa nói: “Người ăn rau ít đau hơn người ăn thịt”. Anh chị bạn chăm sóc khu vườn rất kỹ, suốt ngày vui thú tưới nước, sửa tỉa, bắt sâu, nhổ cỏ dại. Anh cho biết nếu không chăm sóc một thời gian thì những cây mình trồng sẽ héo úa, còn các loài cỏ dại lại hiên ngang lấn lướt. Lúc đó, phải tốn nhiều công săn sóc lại. Anh liền ngâm nga mấy câu thơ của Nguyễn Khuyến:

“Khi vườn sau, khi sân trước. Khi điếu thuốc, khi miếng trầu. Khi trà chuyên năm ba chén, khi Kiều lẩy một đôi câu.”

Chị Sáu rất thích khu vườn này, cứ trầm trồ khen ngợi mãi. Chừng về tới nhà, chị đặt kế hoạch lập vườn như người bạn. Anh Sáu vội can: Hồi bắt đầu hưu mình có chương trình đi thăm viếng bà con, bạn bè nên có ba quyết định em còn nhớ không. Chị Sáu sực nhớ: “À, mình sẽ không kinh doanh, không trồng trọt, không chăn nuôi vì:

Mình còn đi đó, đi đây,
Đâu ngồi một chỗ (để) trồng cây, nuôi gà.”

Nhưng mà anh à, sau năm mười năm nữa, khi mình không còn sức để đi xa, chỉ lẩn quẩn quanh nhà, thì cho em làm vườn để mình ‘vui thú điền viên’ nhe anh.” Anh Sáu hoàn toàn đồng ý với vợ. Như chợt nghĩ ra điều gì, anh Sáu reo lên: “Em à, trong thời gian này, mình có thể trồng vườn cây tâm linh.”  -“Trồng vườn cây tâm linh là sao vậy anh?” chị Sáu hỏi. Anh Sáu: “Mình nên trồng cây ‘lạc quan’, cây ‘tích cực’ trước tiên bằng cách tâm trí mình nghĩ tới mỗi ngày. Mình nên đề phòng cỏ dại là ‘bi quan’, ‘tiêu cực’ mọc chen vào.”

Chị Sáu tiếp: “Vậy thì, em sẽ tìm 9 hột giống để ương cho vườn tâm linh của mình là: yêu thương, bình an, vui mừng, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ là 9 mỹ đức Thánh Linh mà mục sư mình thường nhắc.” Anh Sáu vui vẻ nói: “Những gì trái ngược tính của các cây em vừa kể, đều là cỏ dại hết như: thù oán, lo rầu, buồn bực, nóng nảy, nhẫn tâm, hung dữ, bất tín, vô cảm, bạt mạng”. Chị Sáu vui mừng: “Thực hành được như vậy, mình là ông thánh, bà thánh anh ơi!” Anh Sáu chậm rãi: “Mình nên đề phòng cỏ dại tự kiêu, tự mãn nảy ra một cách không ngờ, nhiều khi ngấm ngầm khó thấy. Kinh Hoa Nghiêm nhắc Phật tử coi chừng tánh cống cao ngã mạn, cũng như sách Châm Ngôn trong Kinh Thánh cảnh cáo tánh kiêu ngạo sẽ đưa đến sự bại hoại.  Mình cần trồng thêm 3 cây nữa em à, đó là khiêm cung, phục thiện và cầu tiến.” Chị Sáu tiếp lời: “Nếu vậy, em đề nghị thêm cây tha thứ nữa, cây này rất quý, hiếm và khó trồng vì cỏ dại từ rễ cay đắng mọc ra dễ làm nghẹt ngòi tha thứ.”

Buổi chiều đó, anh Ba qua chơi. Anh chị Sáu chia sẻ chương trình, kế hoạch làm vườn tâm linh, anh Ba gật gù nói đó cũng là “tâm viên” mà sách nhà Phật nói tới. Anh nói thêm là dù trồng cây thật hay cây tâm linh, cũng cần đề phòng tình trạng trồng lúa của một người Trung Hoa sống đời nhà Tống. Có một lần, người nông phu này sốt ruột khi thấy mạ lớn chậm quá mới dùng tay nhón các gốc mạ lên một phân. Xong việc anh đắc ý nhìn ngắm công trình giúp lúa tăng trưởng của mình. Hôm sau anh thăm lại đám ruộng thì thấy lúa héo và chết! Về sau, người ta dùng thành ngữ “Yển miêu trợ trưởng” để chỉ hành động đốt cháy giai đoạn, không chịu đợi trình tự thời gian, nên dễ gặt hái thất bại. Đoạn, anh kể câu chuyện về người bạn của anh.  Người bạn này vừa đọc xong bộ sách Thiền luận của Suzuki là khoe rằng mình đã ngộ, đã đạt được tâm thanh tịnh. Anh ta làm một bài thơ về Thiền tựa là Tịnh Tâm Viên, nhờ anh Ba cho ý kiến. Anh Ba muốn trắc nghiệm xem người bạn quả thật “hoát nhiên đại ngộ” hay chỉ là ảo tưởng “một bước đến trời”, anh Ba bèn chê: “Bài thơ này tuy có ý hay, nhưng dài dòng, ý trùng lập, có đoạn không vần điệu gì hết…” Anh Ba chưa nói hết câu, thì người bạn đã thấy nóng mặt, giựt lại tờ thơ, nói: “Thôi đủ rồi, cách làm thơ của tôi là như vậy đó, ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi.” Anh Ba lúc đó, cười ha hả: “Ủa! Đạt được tâm thanh tịnh rồi mà sao còn tức khí vậy ha, lại cố chấp nữa.” Người bạn bẽn lẽn: “Tôi tưởng vậy mà không phải vậy, anh ơi.”  Bây giờ, anh Sáu mới tâm sự: “Nhớ lại, thời tôi mới tin nhận Chúa, tôi tự hào mình được đầy dẫy thánh linh, thấy mình rất thiêng liêng! Tôi hay chê bai, chỉ trích người khác sao đã học Kinh Thánh mà còn trần tục quá.  Về sau, tôi mới học được là con đường thánh hóa phải trải qua rất nhiều khó nhọc, gian nan, thử thách. Ai còn đi trên đường đời là còn dính bụi trần, còn có cơ phạm tội.  Những thói hư, tật xấu cứ quay trở lại như ngựa quen đường cũ, như rễ cỏ dại còn sót đâu đó đợi dịp là nẩy đọt, đâm chồi. Ba người bây giờ ăn cơm chiều với nhau. Anh Ba lúc ở nhà thì ăn chay, nhưng khi ra khỏi nhà thì tùy duyên, ăn gì cũng được, không câu nệ.  Họ ăn uống thật vui vẻ, tương đắc với mảnh vườn tâm linh, dầu đi đâu cũng săn sóc được mỗi ngày!

Châu Sa (trích Nếp Sống Mới Hạ 2013)

Cước Chú:

* Người Bắc gọi “rau diếp cá”, người Nam kêu “rau giấp cá”; người Bắc “dọc mùng”, người Nam “bạc hà”; Bắc “cải cúc”, Nam “tần ô”; Bắc ươm cây, Nam ương cây…

* Nguyễn Khuyến (1835-1909) quê nội ở Yên Đỗ, chết chôn tại Yên Đỗ. Ông đậu Giải Nguyên, Hội Nguyên và Đình Nguyên nên được gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ 三元閼堵.

* 9 mỹ đức Thánh Linh: Ga-la-ti 5:22

* Tâm Viên 心園 trong bài khác với Tâm Viên Ý Mã 心猿意馬. Chữ Viên thứ nhất là cái vườn, Viên thứ nhì là con vượn.

* Ý tại ngôn ngoại 意在言外: ý tưởng ngoài lời nói.

* Uyên áo 淵奥: sâu xa thâm thúy, huyền diệu.

* Yển miêu trợ trưởng 揠苗助長  (nhón mạ non cho mau lớn).

* Hoát nhiên đại ngộ: 豁然大 (bỗng nhiên giác ngộ)

Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021

Nấu Thuốc Bắc

 Nấu Thuốc Bắc

Thanh lúc trẻ, lối 15 tuổi thường canh siêu sắc thuốc Bắc cho bà ngoại.  Lúc đó, ngoại hay bị lạnh, nên thầy Đông y chẩn bệnh và cho ngoại uống mỗi ngày 1 thang thuốc Bắc.  Nhà có 4 chị em, mỗi người thay nhau chuẩn bị và ngồi canh siêu thuốc một ngày, nên cứ 4 ngày là tới phiên Thanh.

Vì tình thương đối với bà ngoại, nên mấy chị em vui vẻ làm không hề thấy mệt nhọc.  Sức mạnh của tình thương yêu! 

Thanh học được một điều là thầy thuốc đông y khi bốc thuốc cũng giống như dàn binh ra trận, gọi là Phối-ngũ, dùng các vị thuốc gồm Quân-Thần-Tá-Sứ, tức là có vị thuốc chánh như vua (Quân), có vị phó, như quan (Thần), có vị thuốc phụ tá (Tá), có sứ giả giải hòa, như Cam Thảo làm dịu những chất đắng (Sứ).  Tất cả cho vào cái siêu bằng đất, ngâm trong nước ấm độ 15-30 phút để rửa, rồi đổ vào 3 chén nước, nấu sắc còn 8 phân.  Nhiều vị thuốc có tính ôn nhu, hàn nhiệt, hư thiệt, âm dương khác nhau, nhưng khi nấu lên, thành một khối nước đồng nhất có công năng trị bệnh. Điều này cho chúng ta bài học “hòa nhi bất đồng”.

Nấu thuốc cần kiên nhẫn.  Trước tiên, nấu sôi lên bằng lửa lớn (vũ hỏa), chừng thấy sôi lớn, nổi bong bóng như mắt cá (ngư nhãn), thì để lửa thấp (văn hỏa), giữ độ sôi lăn tăn, như mắt cua (giải nhãn).  Sau 45 phút, chắt ra coi nước cạn tới bao nhiêu.  Nếu còn nhiều quá thì sắc tiếp cho đến khi nào chỉ còn 8 phân. 

Việc này tốn nhiều thì giờ (lối 2 tiếng đồng hồ) nên mọi người thường đem bài học xuống bếp vừa canh thuốc vừa học bài. 

Việc canh siêu thuốc dạy cho chị em Thanh tánh kiên nhẫn, từ đó học tánh nhẫn nhịn, khiêm nhường.  Nhớ một lần, Thanh sốt ruột, mất kiên nhẫn, nên để lửa lớn hơi lâu, thuốc bị cạn chỉ còn 5 phân.  Thanh vội pha thêm nước vào cho đủ 8 phân cho bà ngoại. Không ngờ ngoại nếm là biết ngay.  Ngoại nhỏ nhẹ dạy Thanh câu thành ngữ: “Dục Tốc Bất Đạt欲速不 nghĩa là: “nóng vội sẽ không thành”, và khuyên phải lấy câu nhẫn nại làm câu răn mình. 

Thanh thích cái mùi thuốc khi sắc lại.  Mùi thơm rất dễ chịu tỏa khắp nhà.  Mấy mươi năm trôi qua mà ông còn nhớ mùi hương đặc biệt này. 

         Việc sắc thuốc “3 chén còn 8 phân” có ảnh hưởng tới ông khi làm văn thời đi học và viết văn, viết báo khi ra đời.  Khi viết một bài văn, ông viết qua, sau đó đọc đi đọc lại, cắt xén những câu, những chữ không cần thiết.  Bài ông viết thường được nhận xét là ngắn, gọn, rõ ràng.  Có người phê bình là cô đọng, súc tích.

Khi Thanh được Chúa kêu gọi trở thành Mục sư, thói quen “3 chén còn 8 phân” giúp ông nghe nhiều hơn nói như câu trong sách Truyền Đạo:  “Chớ vội mở miệng ra, và lòng ngươi chớ lật đật nói lời trước mặt Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời ở trên trời, còn ngươi ở dưới đất. Vậy nên ngươi khá ít lời (5:2).

Bài học “3 chén còn 8 phân” cũng ảnh hưởng khi ông soạn bài giảng mỗi Chúa nhật.  Ông ấn định thời gian bài giảng không quá 30 phút.  Nhập đề 5 phút, kết luận 5 phút, thân bài 20 phút.  Hội chúng thấy được dàn bài, bố cục rõ ràng.  Ông tránh vòng vo tam quốc, tránh cà kê dê ngỗng, tránh lập đi lập lại rườm rà.  Xong bài giảng, mọi người nắm được ý chính, nắm được bài học cho ngày hôm đó. 

Nhiều người cho ý kiến rằng 30 phút là vừa phải, chưa kịp buồn ngủ thì bài giảng đã xong.  Có ông cụ bị tuyến tiền liệt hoành hành, khó mà kềm được bọng đái trên 45 phút nên rất cám ơn Mục sư Thanh.  Cụ cho mục sư một câu chữ Hán:  “quý hồ tinh bất quý hồ đa” 貴乎精不貴 “thà ngắn mà đặc sắc, còn hơn văn tự dài dòng”.

Nhờ canh siêu thuốc cho bà ngoại, Mục sư Thanh trở thành một mục tử khiêm nhu, nhẫn nại, chịu đựng với mọi tín đồ và ông chịu khó lắng nghe tâm tình người đối diện như lời khuyên của ông Gia-cơ “Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó: người nào cũng phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận” (1:19).

 


Nhà thơ Linh Ân cảm tác 

NẤU THUỐC BẮC

Thầy thuốc Đông-Y, bốc thuốc thang…

Bày ra “Phối Ngũ” xếp theo hàng,

Quân, Thần, Tá, Sứ, duy ngôi thứ,

Hư, Thiệt, Âm, Dương, Ôn, Nhiệt, Hàn.

“Tứ Phẩm” dồn chung siêu nuớc sạch,

Vũ, Ngư, Văn, Giải, Hỏa công lan.

“Tám Phân” còn lại từ “Ba Chén” !

Kiên nhẫn thi công, “Tốc Bất Toàn”.

                                                   Linh Ân Nguyễn Thiện Nhân

                                                              Cảm tác (08/28/2021)


Từ câu "Dục tốc bất đạt", chị Châu Thanh Thủy ghi những câu ý nghĩa tương tự trong tiếng Anh, tiếng Pháp:

Haste makes waste.

Qui va lentement va sûrement.

Ouvrage hâté, ouvrage gâté.

Vite fait, mal fait

Hâtez vous lentement.


Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Thương Yêu và Tha Thứ

Thương Yêu và Tha Thứ

Mục sư T.  là kỹ sư, làm việc tới 50 tuổi, cảm thấy Chúa thúc giục hầu việc Chúa trọn thời gian.   Ông ghi danh vào trường Kinh thánh, sau khi hoàn tất chương trình hoc, ông được giao cho một Hội thánh để chăm sóc. 

Lúc còn là tín hữu, ông thấy công việc Hội thánh không khó lắm, nhưng khi bắt tay vào việc quản nhiệm, ông mới thấy gay go trăm bề.  Hồi làm kỹ sư, ông chỉ tiếp cận với những con số, chừng làm mục sư, ông phải tiếp xúc với con người.  Mà con người khác hẳn với con số.  Với con số, số 1 hôm nay, ngày mai vẫn là số 1, nhưng với con người, nay vầy mai khác, ngay cả vài tiếng đồng hồ cũng có thể đổi thái độ y như thời tiết:

Sớm mưa, trưa nắng, chiều nồm..

Ông chạm thực tế và hiểu được sâu sắc lời của Gia-cơ (James) 3:10 “Đồng một miệng mà ra cả sự khen ngợi và rủa sả!” 

Lúc đầu, vì không hiểu tâm lý con người, ông xuống tinh thần, có lúc muốn bỏ cuộc.  Qua sự kiên trì cầu nguyện, ông được Thánh linh nhắc nhở “hãy nhìn lên thập tự giá”. 

Thập tự giá cho ông nhiều suy tư quý báu, nhưng 2 điều ông học được nhất là tình thương yêu và lòng tha thứ. 

Vì tình thương yêu bao la của Đức Chúa Trời mà Chúa Giê-su đã giáng thế. Chúa Giê-su chuộc tội lỗi thế nhân bằng sự hi sinh trên thập tự giá.  Trước khi tắt hơi, Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha tha tội cho những người hành hình Ngài vì họ không biết điều họ làm!

Một điều lý thú mà ông nhận ra “thập tự” nguyên là chữ Hán Việt (十字), có nghĩa là “số 10”.  Số 10 gồm 1 + 0.  Trong 9 bông trái Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-23), mỹ đức đầu tiên “thương yêu” là mỹ đức quan trọng nhất, có thể xem như nguồn các mỹ đức kia (vui mừng, bình an, nhẫn nhịn, nhân từ, làm lành, trung tín, khiêm nhường, tiết độ).  Người thích nhạc nói tình thương yêu là nhạc trưởng.

Do đó, số 1 nhắc ông tình thương yêu.  Tình thương yêu của Chúa đối với ông, tình yêu của ông đối với Chúa và đối với những ai ông tiếp xúc.  Số 0 nhắc ông nhớ rằng tất cả sẽ trở thành hư không, chỉ còn tình yêu thương mới trường tồn, nên cần tha thứ.  Tha thứ cho mình, cho người.

Nắm được bí quyết Thương & Tha, ông thấy nhẹ nhõm người. Áp dụng Thương & Tha với mọi người, ông thấy ai cũng dễ thương, và những ai xúc phạm ông, ông cũng tha thứ, mà còn coi đó là dịp tiện để thăng hoa, thánh hóa tâm linh. Những lời nặng nhẹ của người khác, lúc trước ông thấy đau đớn như Tôn Ngộ Không bị vòng kim-cô siết đầu, nay ông xem như vương miện quý báu.

Từ đó, mỗi lần tiếp xúc với bất cứ người nào, ông nhủ thầm: đây không phải là con số giản đơn, đây là con người phức tạp, cần đối đãi bằng tình thương yêu và lòng tha thứ.  Luôn trang bị bằng Tình Thương & Tha Thứ, ông thấy mục vụ dễ dàng hơn và thấy niềm vui khi nhận ra mình có thể chịu khó với người khó chịu nhất.

Ông để trên 6 tháng giảng cho Hội thánh về 2 mỹ đức này.  Bài giảng đầu tiên là câu chuyện Bộ ba Xe Pháo Ngựa trong sách Công Vụ các Sứ Đồ chương 15.  Câu chuyện này thuật mâu thuẫn lớn giữa Ba-na-ba và Phao-lô vào vòng truyền giáo thế giới lần 2 vì cớ Mác.  Trong vòng truyền giáo thứ nhất, vì Mác đã bỏ cuộc nửa chừng, nên Phao-lô trọng kỷ luật và nguyên tắc, không nhận Mác đi trong vòng thứ hai.  Đành rằng Ba-na-ba có họ hàng với Mác, nhưng ông là người có lòng bao dung, thông cảm tính khí bồng bột của người trẻ, thấy sự hối lỗi của Mác, thấy được tiềm năng của chàng, nên sẵn lòng tha thứ cho con ngựa non này.  Không thuyết phục được Phao-lô , Ba-na-ba đành rời Phao-lô để đưa Mác đi con đường truyền giáo khác qua đảo Chíp-rơ.    Nhờ tình thương yêu và lòng thương xót của Ba-na-ba mà tinh thần Mác được phục hồi và trở thành một công cụ hữu dụng trong nhà Chúa.  Ông đã viết nên sách Phúc Âm Mác, đứng hàng thứ nhì trong Tân Ước. 

Thương yêu và được thương yêu; tha thứ và được tha thứ là những điều thiết yếu của mỗi con người sống giữa nhân quần xã hội.  Tình thương và tha thứ  là 2 liều thuốc linh nghiệm chữa trị nhiều bệnh về tâm linh.  Người nào thiếu nó, tâm linh sẽ trở nên khập khểnh. 

Sau thời gian giảng dạy đó, mọi tín hữu như dễ thương hơn, nhường nhịn nhau, thương yêu, thông cảm nhau hơn, gia đình nào cũng thuận hòa, hạnh phúc hơn, hội thánh không bao lâu sau được phấn hưng. 

Người đi xa nay về lại nhà thờ xưa thấy đông hơn, vui hơn, mọi người yêu thương nhau hơn, ngạc nhiên hỏi:  Phép lạ nào đã xảy ra?

PS:  Bộ ba Xe Pháo Ngựa:

Ba-na-ba ví như Xe, có lượng bao dung, có lòng chuyên chở như xe.  Phao-lô ví như Pháo, trực tính, thẳng thừng, không thích nhập nhằng, nổ đùng như pháo. Mác ví như Ngựa, bồng bột, nông nổi, hời hợt của tuổi trẻ.


Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

Hiếm-hiệm nghĩa là gì ?

Hiếm-hiệm nghĩa là gì ?

Hồi tháng 5, 2018 tôi tìm hiểu chữ “hiếm-hiệm” trong Kinh Thánh Việt do cụ Phan Khôi dịch năm 1926 ở câu Thi-thiên 52:7 và câu Thi-thiên 119:14 và sau đó thấy trong ca dao của dân miền Tây Nam bộ thì mới biết rằng hiếm-hiếm là tiếng xưa của miền Trung và Nam có nghĩa là nhiều, không hiếm.

Mời xem lại bài viết hồi 3 năm trước với nhiều vị góp ý lúc đó:

Tôi có một thắc mắc về 2 chữ “hiếm hiệm” thấy trong Thi-thiên 52:7 "Kìa, là người không nhờ Đức Chúa Trời làm sức lực mình,  Song nhờ cậy nơi sự giàu có hiếm hiệm mình; Làm cho mình vững bền trong sự ác mình!" và Thi-thiên 119:14  "Tôi vui mừng về đường chứng cớ Chúa, Như thể vui mừng về của cải hiếm hiệm."  (bản KT Truyền Thống).
            Mới đọc, tôi nghĩ “hiếm hiệm” là hiếm có, hiếm hoi, chừng đọc qua vài bản dịch khác thì tôi thấy nghĩa 2 chữ này là : “dư dật”. 

             Mấy ngày trước, tôi có đưa vấn đề này cho một số người quan tâm đến chữ nghĩa, đến từ nguyên tiếng Việt xưa. Sau đó, tôi nhận được hồi âm một số vị về ý nghĩa 2 chữ “hiếm hiệm” (MS NTP, MS LT, LA/NTN, bà PDN, bà PS, ông TA, cô BV…)

            Nói chung, mọi người tìm ra được nghĩa hiếm hiệm là phong phú, dư dật.  Chữ hiếm có nghĩa là ít oi, nhưng đi chung với hiệm thì ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, giống như “hiệm” triệt tiêu ý nghĩa của chữ hiếm.  Bà PS còn nhớ những người thế hệ song thân của bà ở Bến Tre thường dùng chữ “hiếm hiệm”. Thời các vị này sống cũng phải 70, 80 năm về trước.

    Các bạn cũng đưa nhiều link liên quan đến 2 chữ hiếm hiệm như sau:

www.vanchuongviet.org/index. php?comp=tacpham&action= detail&id=13918

http://cantholib.org.vn:2014/ Bai_bao_tap_chi/BTC.158806.PDF

http://e-cadao.com/cadaonam/ Cadaodancanamkyluctinh6.htm có 2 câu ca dao miền Nam VN:

Muốn chơi chậu cúc tam hường,
Liễu huê hiếm hiệm dọc đường thiếu chi.

Ông TA (OK city) ghi nhận thêm 2 bản dịch khác:  Quyển KT Trọn Bộ ấn hành năm 1998 ở Saigon dịch câu nầy: "Nhìn thấy vậy, chính nhân sợ hãi, nhạo cười rằng : nó đích thị là người chẳng lấy Chúa làm nơi ẩn náu, nhưng chỉ tin cậy vào đống tiền đống của và khoe khoang mưu độc của mình";  Quyển Kinh Thánh do Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn ở Dòng Chúa Cứu Thế SG dịch:  "Nầy đây một người không đặt Thiên Chúa làm nơi ẩn náu, nhưng nó cậy nó lắm của, nó tự hào nơi điều tội ác"

Nhà thơ Linh Ân (Nguyễn Thiện Nhân) xuất khẩu bài thơ:

"HIẾM" mà "KHÔNG HIẾM"

"Hiếm" chữ này ai chẳng biết nào...

Thế thì "Hiếm Hiệm", nghĩa là sao !?

Tra "Văn Chương Việt" xem lời giải...

"Hiếm" cộng "Hiệm" nên "Chẳng Hiếm" hao.

          Một bài học mà mỗi tín nhân có thể rút ra từ câu Thi Thiên 52:7: tài sản kếch sù dễ làm người ta ỷ tài, ỷ sức, ỷ của, quên mất Chúa và có thể làm nhiều điều ác!

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021

Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng

Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng

Hàn Tín (229 – 196 TCN) là người Hoài Âm, tỉnh Giang Tô có tài điều binh, khiển tướng.  Lúc chưa gặp thời, rất nghèo khó. Ông thường câu cá dưới thành, hi vọng sẽ gặp vận may để giúp cho cuộc sống. Nhưng đó không phải là cách để dựa vào, vì thế thường bị đói.

Nơi Hàn Tín câu cá, có nhiều phiếu mẫu 漂母 (bà lão đập bông tơ), trong đó có một người thương cảm cảnh ngộ của Hàn Tín nên không ngừng giúp Hàn Tín thức ăn. Trong lúc gian khó được ân huệ của một người cần lao khắc khổ kiếm sống bằng đôi tay của mình, Hàn Tín vô cùng cảm kích, nên đã nói với phiếu mẫu rằng, tương lai nhất định sẽ báo đáp hậu hĩ.

Về sau, Hàn Tín lập nhiều công lao cho Hán Vương, được phong làm Sở Vương. Nhớ đến mình từng chịu ơn của phiếu mẫu, Hàn Tín sai người mang rượu cùng thức ăn đến cho bà, đồng thời tặng 1000 lượng vàng để đáp tạ.

Thành ngữ “Nhất Phạn Thiên Kim” 一饭千金 (Bát cơm ngàn vàng) cũng từ đây mà ra. Ý nói rằng, nhận của người một chút ân huệ dù ít ỏi giống như bát cơm, nhưng báo đáp người lại đầy tràn như ngàn lượng vàng.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du diễn thành ngữ đó với 2 câu thơ:

Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân.

Ca dao Việt Nam có câu:

Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.

Kinh Thánh thuật chuyện một người nữ tài đức trong sách Châm Ngôn 31 có câu:  20 Nàng mở rộng tay giúp người nghèo khó, Đưa tay ra tiếp kẻ khốn cùng”.

Trong sách Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi dạy cách ăn ở:

Ở cho có đức có nhân,

Mới mong đời trị được ăn lộc trời.

Thương người tất tả ngược xuôi,

Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.

Thương người ôm dắt trẻ thơ,

Thương người tuổi tác già nua bần hàn.

Thương người quan quả cô đơn

Thương người đói rách lẩm than kêu đường.

Thấy ai đói rét thì thương,

Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.

Thương người như thể thương thân,

Người ta phải bước khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo mang ra,

Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên

 

          Hiện nay, nhiều người ở Sài Gòn e sẽ chết đói trước khi chết dịch vì lệnh phong tỏa kéo dài, nạn thiếu nguồn cung cấp thực phẩm, lệnh ngăn cấm người về quê, tình trạng thất nghiệp… nên hiện nay một chút đồng tiền bát gạo có thể cứu đói nhiều gia đình. Có những tấm lòng hảo tâm tìm nguồn quyên góp từ mọi nơi khác, tìm nguồn cung cấp gạo, thức ăn để giúp cho những người gặp khó khăn.  Cầu xin Ơn Trên ban phước lại những người có tấm lòng “lá lành đùm lá rách” ở quốc nội cũng như quốc ngoại.

Trời không phụ người có lòng tốt (Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân):

Thấy người hoạn nạn thì thương,

Thấy người tàn tật lại càng trông nom,

Thấy người già yếu ốm mòn,

Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.

Trời nào phụ kẻ có nhân,

Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.

Trích Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi

 

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

Mỗi Ngày Một Vần Thơ Thánh

             Nhiều câu viết trong Kinh Thánh, tuy lời ít mà ý nhiều, từ ngữ đơn giản mà tác dụng lớn lao, có quyền năng và sức sống giúp chúng ta thay đổi tấm lòng. 

Mỗi sáng tôi đọc Kinh Thánh, gặp câu nào thích thú thì suy gẫm và viết lại bằng thơ để ý thiêng thấm vào tận tim óc, hồn linh. Năm 2004, tôi kết được 365  câu thơ, in thành sách:  “Mỗi Ngày Một Vần Thơ Thánh”. Sách đã tái bản 3 lần, được nhiều người đón nhận, trân quý.  Sách in trên giấy đã hết, nhưng tôi không thấy cần in lại vì hiện nay, chúng ta có thể đọc trên blog dễ dàng, nhanh chóng và nhất là… miễn phí. 

Người ta hay phổ nhạc

Còn tôi thích “phổ thơ”

Những vần thơ mộc mạc

Những vần thơ đơn sơ.

*

Mỗi ngày tôi suy gẫm

Vài câu gốc Thánh Kinh

Rồi hứng chí dệt thành

Những vần thơ nho nhỏ.

*

Thơ đã từng cổ võ

Những lúc tôi âu lo

Thơ làm tôi vui sống

 Lúc buồn chán ngập lòng.

*

Thơ đã từng khích lệ

Những lúc tôi phân vân

Thơ đã từng an ủi

Lúc tôi xuống tinh thần..

 

 

Nhà thơ Tường Lưu giới thiệu:

 

Những vần thơ nho nhỏ

Tác động trong lòng người:

Coi những cơn nguy khó

Nhẹ như gió thoảng thôi!

 

Lời Chúa, Lời Hằng Sống

Phổ thơ, thơ Châu Sa

Mời anh em khắp chốn

Hãy cùng tôi ngâm nga!

Tường Lưu

Houston 19/05/2005

 

Một câu trong Ma-thi-ơ 19:6b, trong bản Kinh Thánh Truyền Thống, cụ Phan Khôi dịch hồi năm 1926 thế này:  “Vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!”  Tôi phổ thơ và ghi trong sách câu thứ 221 như sau:

 

221

  Chúa Trời đã kết mối duyên,

Xin đừng chia thúy rẽ uyên tội tình!

Mathiơ (Matthew)  19:6b

 

Câu thơ khác:

Vợ chồng Chúa đã an bài,

Đừng ai chia rẽ duyên hài lứa đôi.

Mathiơ (Matthew)  19:6b

 

Mời quý vị và các bạn đọc toàn tập thơ qua:

https://chaungochiep.blogspot.com/2015/10/moi-ngay-mot-van-tho-thanh.html