Kính thưa quý độc giả,
Trong lần tái bản này, chúng tôi đã:
- Sửa một số lỗi chính tả tìm thấy trong bản in trước.
- Thêm vài ý nhỏ điểm xuyết trên một số trang.
- Thêm 5 câu CN - NN:
-
A5.
APPLE of the eye: trái táo của mắt.
-
F4. FEET of clay: bàn chân đất sét.
-
G13.
GOOD SAMARITAN: người Samari nhân từ.
-
S3.
SCAPEGOAT: Dê tế thần.
-
S20. SPEAK evil of no man: Chớ nói xấu ai.
- Thêm mục lục, xếp Lời Kinh Thánh theo thứ tự của quyển Kinh Thánh để tiện việc tra cứu.
Rất mong quý độc giả cho ý kiến xây dựng để kỳ in tới được tốt
đẹp hơn.
Châu Sa
09 - 2006
In
lần thứ ba (2009)
Một
số Châm-ngôn, Ngạn-ngữ thông dụng trong tiếng Anh có nguồn gốc từ Kinh Thánh.
Tục
ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ, châm ngôn, cách ngôn… nằm trong gia tài văn hóa mà
người xưa để lại cho chúng ta. Bất cứ
dân tộc nào cũng có những câu nói ngắn gọn, cô đọng, súc tích, dễ nhớ. Tuy ít lời nhưng chúng nói lên được rất nhiều ý tưởng thâm
thúy. Nhiều câu nói này đã thành những
viên ngọc quí trong túi khôn của loài người vì dạy chúng ta cách tu thân và xử
thế khôn ngoan.
Văn hóa Âu Mỹ
chịu ảnh hưởng Kinh Thánh rất sâu đậm.
Từ các tác phẩm văn chương cho đến các câu nói hằng ngày, chúng ta bắt
gặp đây đó những châm ngôn, ngạn ngữ có nguồn gốc từ quyển sách quý báu này.
Chúng tôi sưu tập được một số từ ngữ đặc biệt đó với mong ước giúp ích một phần
nào cho các bạn đang học Anh văn nhưng trước giờ không quen biết với Kinh
Thánh. Chúng tôi cố gắng tìm những câu
tục ngữ, ca dao Việt Nam
diễn tả ý tưởng tương tự để các bạn dễ hiểu.
Châu
Sa
06-2006
Lời Giới Thiệu
Tôi hân hạnh được đọc
quyển sách “MỘT SỐ CHÂM-NGÔN, NGẠN- NGỮ
THÔNG DỤNG TRONG TIẾNG ANH CÓ NGUỒN GỐC
TỪ KINH THÁNH” do Bác sĩ Châu Ngọc Hiệp
biên soạn. Nhận thấy soạn giả đã dành
nhiều thì giờ và công sức để nghiên cứu,
truy cập và đúc kết những câu Kinh Thánh mà người Anh Mỹ đã dùng như những ngạn
ngữ trong các tác phẩm văn chương hay trong những câu nói hằng ngày. Điều đặc biệt hơn nữa là soạn giả đã chịu khó
tìm những câu ca dao và tục ngữ Viêt Nam có ý nghĩa tương đương, để giúp độc
giả Việt Nam
dễ hiểu hơn. Cuốn sách này rất thích hợp
và hữu ích cho nhiều người muốn đi vào chiều sâu của nền văn chương Anh Mỹ hay
chỉ “đọc
chơi cho biết”. Nội dung cuốn sách rất
phong phú, lời văn sáng sủa, bình dị, đơn giản làm cho người đọc cảm thấy thích
thú ở mỗi trang, mỗi bài. Đây là một
quyển sách đáng có trong tủ sách của mình. Tôi xin ân cần giới thiệu cuốn sách này đến
quý độc giả.
Diệp Dung
Shalimar, Florida, USA
LỜI GIỚI THIỆU
Từ mấy năm nay, mỗi kỳ báo NẾP SỐNG MỚI đều có đăng mục “Một Số Châm Ngôn, Ngạn Ngữ Thông Dụng Trong
Tiếng Anh Có Nguồn Gốc Từ Kinh Thánh”, và người biên soạn mục này là Bác Sĩ
CHÂU NGỌC HIỆP. Đọc mấy số đầu tiên có
đăng mục này (năm 2003), tôi có cảm tưởng rằng đọc không “đã”. Bài viết hay như
thế mà đọc “nhín nhín” thì không thế nào “đã” được. Tôi tin bạn đọc đồng ý với tôi.
Bây giờ, cầm cuốn sách trong tay rồi, chưa đọc chúng ta cũng
thấy “đã” vì biết rằng khi đọc thì chúng ta không phải... “nhín nhín” nữa, không phải chờ... vài tháng
sau mới được đọc tiếp, mà chờ vài tháng thì thời gian... dài lắm.
Tôi xin phép sơ lược 7 điểm “đã” sau đây:
1. Những câu Châm
Ngôn, Ngạn Ngữ thông dụng trong tiếng Anh có nguồn gốc từ Kinh Thánh, nghĩa là
từ Lời Đức Chúa Trời, nghĩa là từ Lời Hằng Sống. Đọc Lời Hằng Sống thì không phước gì
bằng.
“Đã” là vậy!
2. Hầu hết mỗi câu
Châm Ngôn, Ngạn Ngữ đều được nghiên cứu và chú giải rõ ràng. Lúc tiếng Anh, lúc tiếng Pháp, lúc tiếng Hoa,
v.v... và có khi thêm cả những câu ca dao Việt Nam có ý nghĩa tương tự vào, đọc
lên thú vị biết bao. C4 dùng câu tiếng
Anh: Spare the rod and spoil the CHILD,
có mấy câu ca dao:
Uốn cây từ thuở
còn non
Dạy con từ thuở
con còn trẻ thơ.
Đẻ con chẳng dạy,
chẳng răn
Thà rằng nuôi lợn
mà ăn lấy lòng.
“Đã” là vậy!
3. Đây đó đều có
những mẩu chuyện nho nhỏ làm sáng tỏ thêm các câu Châm Ngôn, Ngạn Ngữ. Những mẩu chuyện nho nhỏ ấy không phải dễ
kiếm đâu. Phải đọc vô số sách mới “lựa”
ra được mà ghi lại cho chúng ta thưởng thức.
Mời bạn nghe một câu chuyện về sự nhẫn nhịn (C3):
Một danh sĩ đời Đường bên Tàu tên là Lâu Sư Đức làm đến tể
tướng có người em trai tánh rất háo thắng, thường dạy dỗ, nhắc nhở em nên nhẫn
nhịn để tránh tai họa. Một hôm, người em
được bổ làm Thứ sử Đại Châu, đến từ biệt anh.
Ông Lâu Sư Đức nói: “Anh em mình nhận ân sủng quốc gia quá nhiều,
vinh hoa cũng quá rồi. Điều này sẽ khiến
cho người khác ghen ghét đố kỵ. Em có
cách gì tránh được nguy hiểm không?”
Người em khoe: “Bây giờ, nếu có
ai nhổ nước bọt vào mặt em thì em sẽ lau và không phản ứng gì lại họ đâu. Như vậy là tránh được phiền phức.” Lâu Sư Đức lắc đầu nói: “Không được lau. Khi người ta nhổ nước bọt vào mặt em là lúc
đó họ đang giận dữ vô cùng. Nếu em lau
khô nước bọt trên mặt đi tức là em tỏ vẻ phản kháng, lau cho sạch cái dơ bẩn đó
đi và càng làm cho họ thêm tức giận, như thế thì như thêm dầu vào lửa. Em không được lau mà phải để nó tự khô đi,
lúc đó họ cũng đã nguôi giận rồi nên không còn nguy hiểm nữa.” Từ sự tích trên, người đời sau có thành ngữ “thóa
diện tự can” (nước miếng nhổ lên mặt cứ để tự nó khô đi), để diễn tả độ lượng
quảng đại, nhẫn nhịn của một người hiền lành.
“Đã” là vậy!
4. Có những câu Châm
Ngôn, Ngạn Ngữ chúng ta dùng sai, dùng thiếu, lạm dụng... thì soạn giả “nêu”
điều ấy ra cho chúng ta thấy. Mà khi
chúng ta thấy được, có lẽ chúng ta... tự cười mình một cách khoái trá: Ngày nay, nhiều người nhắc lại câu “cái gì
của Xêxa trả lại cho Xêxa”, mà không biết đến vế thứ hai (C1): “cái gì của Thượng Đế hãy trả lại cho Thượng
Đế”. Hoặc giả: Không dùng danh Chúa để thề thốt, để làm
chứng dối, và ngay cả dùng khơi khơi như nhiều người hay kêu “Chúa ơi!”, “Trời
ơi!” (N1).
“Đã” là vậy!
5. Có thể nói, khi
đọc phần lớn những câu Châm Ngôn, Ngạn Ngữ này, chúng ta thấy rõ ràng: Đây là một bài giảng ngắn, một bài giảng cô
đọng, một bài giảng giá trị, có ích lợi cho đời sống Cơ Đốc Nhân. Tôi tin tưởng rằng bạn đọc sẽ thấy phần thuộc
linh của mình được tăng trưởng. Bạn đọc
nào tính tình nóng nảy, càng già càng nóng... giỏi, xin đọc thử A4 về ANGER
xem!
“Đã” là vậy!
6. Bạn đọc nào thích
thơ, thì những vần “Châu Ngọc”, “Châu Sa” điểm trang đây đó trong cuốn sách, sẽ
làm bạn thỏa lòng. Tôi đan cử N3 với câu
Kinh Thánh Mathiơ 22:37-39 được soạn giả phổ thơ một cách tài tình như sau:
Thứ nhất hết linh
hồn, hết ý
Cùng hết lòng yêu
quí Chúa Trời
Thứ nhì cư xử
trên đời,
Thương yêu, giúp
đỡ những người cận lân.
Thương người như
thể thương thân.
“Đã” là vậy!
7. Việc sưu tập để
thực hiện cuốn sách này soạn giả “mong ước giúp ích một phần nào cho các bạn
đang học Anh văn nhưng trước giờ không quen biết với Kinh Thánh”. Theo tôi, đây là một sự khiêm nhượng của soạn
giả. Tôi tin rằng cuốn sách này dùng cho
mọi lứa tuổi, kể cả... bô lão như tôi, và Anh ngữ... lôi thôi như tôi. Đọc cuốn sách nào cũng vậy, không cứ gì cuốn
này, nếu ta thấy hấp dẫn từ đầu đến cuối, là ta phải... mê. Nhưng đọc sách để... mê thì chưa đạt. Đây là lời khuyên của soạn giả trong B10:
Đọc sách như ăn, không
cần biết là đọc được bao nhiêu mà phải xem tiêu hóa được bao nhiêu. Đọc sách đạo không chỉ nhắm vào việc tăng
kiến thức mà còn phải nhắm vào việc thay đổi được lòng mình, bổ ích cho đời
sống tâm linh của mình.
“Đã” là vậy!
Số 7 là số trọn vẹn, nên tôi xin tạm ngưng ở điểm 7
này. Mời bạn đọc tiếp tục đọc và kê ra
nhiều lần... 7 nữa.
Đây là một cuốn sách được soạn thảo rất công phu, mất nhiều
thì giờ và tâm huyết. Tôi xin trân trọng
giới thiệu đến bạn đọc. Xin cám ơn soạn
giả, bác sĩ Châu Ngọc Hiệp. Xin Chúa ban
phước lại trên ông.
TƯỜNG LƯU
Viết tại Houston, ngày 25/05/2006
Những chữ viết tắt:
ASV: Bản American Standard Version.
BDHĐ: Bản dịch
Hiện Đại do Mục sư Đặng Ngọc Báu dịch.
BDM: Thánh
Kinh, Bản Dịch Mới, Arms of Hope, Midland,
Texas.
BDY: Bản Thánh
Kinh do Mục sư Lê Hoàng Phu diễn ý, International Bible Society xuất bản 1994.
BPT: Bản Phổ
Thông tức là Niềm Hi Vọng, phần Tân Ước do Trung Tâm Phiên Dịch Kinh Thánh Thế
Giới, xuất bản tại Fort Worth,
Texas năm 2002.
BTT: Bản Truyền
Thống, hay bản cổ điển của Tin Lành do cụ Phan Khôi dịch, xuất bản vào khoảng
năm 1926, ngày nay vẫn còn được nhiều người ưa chuộng. Còn gọi là bản dịch Cadman.
CD: Ca dao Việt Nam
GNKT: Giải Nghĩa Kinh Thánh Tân Ước, William Barclay.
KT: Kinh Thánh.
KJV: Bản King
James Version.
MTBG: Minh Tâm
Bảo Giám.
NKJV: Bản New
King James Version.
NIV: New
International Version.
TCTK: Thi Ca
Thánh Kinh, do Ông Phan Như Ngọc diễn ý bằng thơ, Gia Đình Đức Tin Việt Nam xuất bản,
2002.
VN: Việt Nam.
Tài Liệu Tham Khảo:
Ngoài các bản dịch Kinh Thánh, chúng tôi tham khảo thêm những tài
liệu:
- Giải Nghĩa Kinh Thánh Tân Ước, do William Barclay biên soạn, Văn Phẩm Nguồn Sống dịch năm 1991.
- Kinh Thánh do Lm. Nguyễn thế Thuấn dịch. Dòng Chúa Cứu Thế in năm 1976.
- Kinh Thánh Trọn Bộ (Công Giáo, 1998).
- The Complete Book of Bible Literacy, Mark D. Taylor, 1992.
- Where to find it in the Bible, Ken Anderson, 1996
- Tục ngữ, Phong dao, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc sưu tập.
- Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, Vương Trung Hiếu tuyển chọn & biên soạn.
- Wise words and wives ‘ Tales, Stuart Flexner and Doris Flexner. New York, Avon Books 1993.
- The Concise Oxford Dictionary of Proverbs, Oxford University Press, 1992.
- In Few Words (En Pocas Palabras): A compendium of Latino Folk wit and wisdom by José Antonio Burciaga.
- Minh Tâm Bảo Giám (MTBG): do Nguyễn Quốc Đoan chú dịch, Nhà XB Văn Hóa, Việt Nam, 1996.
- Tự Điển Hán-Việt Thiều Chửu, mạng lưới Internet 2003.
- Tự Điển Thành Ngữ - Tục Ngữ Việt Nam, Vũ Dung, Vũ Thúy Anh Nhà xb Văn Hoá TT 1993.
- Tự Điển Thành Ngữ Hoa Việt thông dụng, Khổng Đức Trần Bá Hiền, Nhà xb VH-TT 2001.
- Thơ trích của các nhà thơ: Bạch Loan, Linh Cương, Thái Trịnh, Tường Lưu.
- Giải Đáp 306 Câu Hỏi của Tín Hữu Cơ Đốc, Diệp Dung biên soạn.
- Tự Điển Nho Phật Đạo: Lao Tử - Thịnh Lê
- Kinh Thánh Diễn Thơ: Trình Hữu Lân, (Cần Giuộc, Long An, Việt Nam.)
- Nhu Liệu Thánh Kinh 2005. Do BS Phạm Quang Trọng chủ trương.
Liên lạc: nhulieuthanhkinh2005@yahoo.com
Tên các sách trong Kinh Thánh:
Phần Cựu Ước (The Old Testament) gồm 39 sách:
Genesis: Gen. Sáng
thế ký; Sáng thế
Exodus: Ex. Xuất Ê-díp-tô ký; Xuất-Hành;
Leviticus: Lev. Lê-vi ký; Lê vi
Numbers: Num. Dân số ký; Dân số
Deuteronomy: Deut. Phục Truyền luật lệ ký;
Joshua: Josh. Giô suê; Yôsua
Judges: Judg. Các Quan Xét; Thẩm phán; Quan
án
Ruth Ru tơ
I Samuel: 1 Sam. I Samuên
II Samuel: 2 Sam. II Samuên
I Kings: 1 Kin. I Các Vua
II Kings: 2 Kin. II Các Vua
I Chronicles: 1 Chr. I
Sử ký; 1Ký sự
II Chronicles: 2
Chr. II Sử ký; 2Ký sự
Ezra Exơra
Nehemiah: Neh. Nêhêmi
Esther: Esth. Êxơtê, Exơthê
Job Gióp;
Yôb
Psalms: Psa. Thi thiên; Thánh vịnh
Proverbs: Prov. Châm ngôn; Cách ngôn
Ecclesiastes: Eccl. Truyền đạo; Giáo huấn; Giảng
viên
Song of Songs: Song Nhã ca; Tình ca; Diệu ca
Isaiah: Isa. Êsai; Êsa; Ysaya
Jeremiah: Jer. Giêrêmi; Yêrêmya
Lamentations: Lam. Ca thương; Ai ca
Ezekiel: Ezek. Êxêchiên; Êxêkiên
Daniel: Dan. Đaniên
Hosea: Hos. Ôsê; Hôsê
Joel Giôên;
Yôel
Amos: A mốt
Obadiah: Obad. Áp đia; Abdya
Jonah Giôna;
Yôna
Micah: Mic. Michê; Mai-ca; Mica
Nahum: Nah. Nahum; Nahâm
Habakkuk: Hab. Habacúc
Zephaniah: Zeph. Sôphôni
Haggai: Hag. Aghê; Hà ghi
Zechariah: Zech. Xachari; Zacarya
Malachi: Mal. Malachi; Malaki
Phần Tân Ước (The New Testament) gồm 27 sách:
Matthew: Matt. Mathiơ; Mã thi;
Matthêô
Mark Mác;
Marcô
Luke: Luca;
Lưu ca
John: Giăng;
Yoan
Acts: Công
vụ các Sứ đồ (Tông đồ)
Romans: Rom. Rôma; La mã
I Corinthians: 1
Cor. 1 Côrinhtô; 1 Cổ
linh
II Corinthians: 2
Cor. 2
Côrinhtô; 2 Cổ linh
Galatians: Gal. Galati
Ephesians: Eph. Êphêsô
Philippians: Phil. Philíp
Colossians: Col. Côlôse
I Thessalonians: 1
Thess. I Têsalônica; I Têsalongca
II Thessalonians: 2
Thess. II Têsalônica; II
Têsalongca
I Timothy: 1 Tim. I Timôthê; I Ti mộ thư
II Timothy: 2 Tim. II Timôthê; II Ti mộ thư
Titus: Tit. Tít; Tích
Philemon: Philem. Philêmôn
Hebrews: Heb. Hêbơrơ; Hy bá; Hipri
James: Jas. Giacơ; Yacôbê
I Peter: 1 Pet. I Phiêrơ; I Phêrơ,
I Phiarơ, I Phêrô
II Peter: 2 Pet. II Phiêrơ; II Phêrơ;
II Phiarơ; II Phêrô I John: I
Giăng, I Yoan
II John: II
Giăng; II Yoan
III John: III
Giăng; III Yoan
Jude: Giuđe; Yuđa
Revelation: Rev. Khải
huyền; Khải thị
Ghi chú:
- chữ in nghiêng: viết tắt (một số sách có tên dài, quá 5 mẫu tự, người ta thường viết tắt.)
- chúng tôi dùng tiếng Anh khi đề cập tới những sách trong Kinh Thánh để người đọc dễ nhận ra khi đọc sách, báo tiếng Anh. Phần dịch các tên sách ra tiếng Việt, chúng tôi kê ra tất cả những chữ dịch trong các quyển Kinh Thánh Tin Lành và Công Giáo mà chúng tôi có trong tay.
- So với Kinh Thánh Tin Lành, Kinh Thánh Công Giáo La mã có thêm 7 sách trong phần Cựu Ước là: Tobit, Judith, 1 & 2 Maccabees, Wisdom (Khôn ngoan), Sirach (Huấn Ca), Baruch.
- Jesus là tên Chúa Giê-xu, có sách viết là Giê-su, Jêsu.
- Khi dịch một câu Kinh Thánh, chúng tôi dùng câu trong bản dịch nào dễ hiểu, chính xác, và thuận với lối hành văn hiện đại nhất. Có những nơi, chúng tôi dùng những câu dịch trong tập thơ “Mỗi Ngày Một Vần Thơ Thánh” của Châu Sa.
A
A1. ALL things to ALL men:
Nguồn
gốc: 1 Côrinhtô (Corinthians) 9:22.
Theo bản KT NKJV: “to the weak I
became as weak, that I might win the weak.
I have become all things to all
men, that I might by all means save some.” Dịch là “Đối với người yếu đuối tôi trở
nên yếu đuối để cứu những người yếu đuối.
Tôi đã trở nên như mọi người
để có thể cứu một số người bằng mọi cách.”
(BPT); “tôi đã trở nên mọi cách
cho mọi người…” (BTT); “tôi hòa mình với mọi người …” (BDY).
Câu này do
Thánh Phao-lô muốn hòa mình với người khác, tìm mẫu số chung tương đồng với
người, để tìm dịp giới thiệu Đấng Christ cho họ. Ông William Barclay, trong GNKT viết rằng:
“Chúng ta chẳng bao giờ có thể làm chứng đạo hay kết bạn với bất cứ ai, trừ phi
chúng ta biết nói cùng một thứ ngôn ngữ, suy tư cùng tư tưởng với kẻ khác. Có người bảo dạy học, làm thầy thuốc và làm
mục sư là ‘ba nghề làm thầy thiên hạ’.
Bao lâu chúng ta còn thái độ trịch thượng và không cố gắng tìm hiểu, tìm
một điểm để tiếp cận người khác, chúng ta sẽ chẳng làm gì được với họ cả.”
Câu này
tương đương câu: “When in Rome,
do as Romans do,” “ở bầu thì tròn, ở ống
thì dài,” “nhập gia tùy tục, nhập giang
tùy khúc” (入 家 隨 俗. 入 江 隨 曲
)…
Ngày nay, ở
đôi lúc, câu “all things to all men” bị xử dụng lệch lạc đi, khi chỉ những
người “theo gió phất cờ,” “hoạt đầu chính trị”
(滑 頭 政
治 ) …
A2. ALL things work together for good:
Nguồn
gốc: Rôma (Romans) 8:28, theo bản
KJV: “And we know that all things work together for good to
them that love God, to them who are the called according to his purpose.” Dịch
là: “Chúng ta biết trong mọi việc, Thượng Đế đều làm lợi ích cho những người
yêu mến Ngài, là những người Ngài đã gọi, theo mục đích của Ngài” (BPT); hoặc “Chúng ta biết mọi việc đều hợp
lại làm ích cho người yêu mến Chúa, tức là những người được lựa chọn theo ý
định của Ngài” (BDY).
Mọi
sự đã hiệp lại
Làm
ích cho những người
Vâng
theo sự kêu gọi
Yêu
mến Đức Chúa Trời.
Câu nói này
an ủi nhiều người khi gặp nghịch cảnh, tức là những hoàn cảnh không thuận lợi
vì Đức Chúa Trời sẽ biến đổi tai họa ra phước hạnh cho những người yêu kính
Chúa.
A3. It is not good for the man
to be ALONE:
Nguồn gốc: Sáng Thế (Genesis) 2:18, (Sau khi tạo dựng Adam) Đức Chúa Trời
lại nói: "Con người ở một mình
không tốt! Ta sẽ dựng nên cho người một kẻ giúp đỡ thích hợp." (BDM).
A4. Never let the sun go down on
your ANGER:
Nguồn
gốc: Êphêsô (Ephesians) 4:26, Phao-lô
khuyên trong câu này: Khi đang nóng giận chớ nên phạm tội, và hãy
nguôi giận trước khi mặt trời lặn (BPT).
Xem thêm W15.
Chớ phạm tội khi anh em
nổi nóng,
Cơn giận nên nguôi khi
bóng chiều tà.
Làm
người, không ai là không có những lúc nổi giận, nhưng làm sao mà không để mình
thốt ra những lời không đẹp, hoặc làm những việc không hay, để khỏi có những
hối tiếc về sau. Để cơn giận kéo dài,
sôi sục trong lòng chỉ làm hại mình: tim
sẽ đập nhanh, huyết áp sẽ tăng vọt, trí óc mất sáng suốt và sẽ mất ngủ nếu vẫn
còn nuôi cơn giận sau khi mặt trời lặn.
Trong chữ Nho, NỘ (怒)
là giận, theo chiết tự “nộ” gồm
chữ nô (奴) là nô lệ và chữ tâm
(心)
là lòng. Người xưa có lẽ cho rằng ai
không kiềm hãm được cơn giận, là trái tim mình đang trong tình trạng nô
lệ. Trong tiếng Anh, cơn giận (Anger) và
nguy hiểm (Danger) liền nhau một vần, và chỉ cách nhau một mẫu tự D, tức là chỉ
cách nhau trong gang tấc. Các nhà tù
nhan nhản những người bình thường như chúng ta, vì không kềm được cơn giận
trong phút chốc mà họ can tội sát nhân.
Những người này sống trong ân hận suốt đời.
Tục ngữ Việt Nam: “no quá mất ngon, giận quá mất khôn” “vui đừng hứa, giận đừng nói.” Ca dao có câu:
Cơm ăn mỗi bữa một lưng,
Hơi đâu mà giận người dưng thêm phiền.
Để có sự
bình an trong tâm hồn, chúng ta hãy dập tắt cơn giận càng sớm càng tốt!
A5.
APPLE of the eye: trái táo của mắt.
Nguồn gốc: Thi-Thiên (Psalm) 17:8 “Keep me as the apple of the eye; Hide me under the shadow of thy wings” (ASV).
“Cầu Chúa bảo hộ tôi như con ngươi của mắt; Hãy ấp tôi dưới bóng cánh của Chúa” (BTT).
Trái táo của mắt chỉ con ngươi của mắt, nghĩa bóng chỉ vật (hoặc người) quý báu, được cưng chiều.
Trái táo của mắt chỉ con ngươi của mắt, nghĩa bóng chỉ vật (hoặc người) quý báu, được cưng chiều.
A6. APPLES of Gold:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 25:11 “A word aptly spoken is like apples of gold in settings of silver”
(NIV).
Châm Ngôn 25:11: “lời bàn đúng lúc, chẳng khác gì trái
táo vàng trên đĩa bạc” (BDY); “Không gì quý bằng lời bàn đúng lúc, như quả táo vàng trên đĩa bạc mời dâng” (TCTK).
Lời
nói hợp lý, hợp tình,
Khác
nào mâm bạc, táo vàng đi đôi.
Ngạn ngữ của người Lebanon có câu: “Nói là bạc, im lặng là vàng” (If speech is silver, silence is gold) nhưng lời nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng người
làm họ lên tinh thần, hay giúp họ giải quyết được nan đề thì quý hơn vàng. Ca dao Việt Nam:
Lời nói không
mất tiền mua,
Lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau.
A7. ASK, and it shall be given you:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 7:7 “Ask and it will be given to you; seek and
you will find; knock and the door will be opened to you” (NIV). Nghĩa là “Hãy xin, Thượng Đế sẽ ban cho các con. Hãy tìm, các con sẽ gặp. Hãy gõ, cửa sẽ mở ra cho các con” (BPT).
Đây là một
trong những lời dạy của Chúa Giê-xu, trích trong phần gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (Sermon on the Mount). Chúa nhấn mạnh rằng Thượng Đế sẵn sàng ban
phước cho ai tìm và xin. Một câu phán
khích lệ của Đức Chúa Trời được ghi trong Giêrêmi
(Jeremiah) 33:3
“Call to Me, and I will answer you, and
show you great and mighty things, which you do not know” (NKJV):
Con
hãy kêu cầu Ta
Ta
sẽ tỏ bày ra
Những
việc lớn và khó
Con
chưa từng biết qua.
Ngày nay,
câu nói thường dùng để khuyến khích chúng ta đừng quá nhút nhát, e ngại, mà hãy
mạnh dạn hỏi hoặc nhờ người khác giúp cho mình những nhu cầu chính đáng.
B
B1. BABEL:
Babel có
nghĩa là tiếng nói, âm thanh lộn xộn, nghe không hiểu được, có nguồn gốc từ
thành ngữ “Tower of Babel” trong sách Sáng Thế Ký (Genesis) 11:1-4.
Ngày xưa, tại
vùng Mesopotamia, có một thành phố tên là Babylon, hay là Babel, con cháu của ông
Noah xây cất một cái tháp thật cao mong ước đến tận thiên đình. Họ làm được vì họ cùng nói một thứ tiếng nói,
nhưng sau đó Đức Chúa Trời đã làm cho họ nói hằng trăm thứ ngôn ngữ khác nhau,
công việc xây cất phải bỏ dở vì họ không còn hiểu nhau nữa. Có người đề nghị dịch “Tower of Babel”
là “Tháp Bá Biện” vì Bá là hằng trăm và Biện là phân biệt. Ngày nay, Babel dùng để chỉ một tình trạng hỗn độn,
nhiều âm thanh lộn xộn và cũng nhắc lại tánh ngạo mạn của con người. Xem T8.
B2. Out of the mouth of BABES: lời trẻ, miệng trẻ
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 8:2; Mathiơ (Matthew) 21:16.
Con trẻ
thường có đầu óc trong trắng, tâm hồn đơn sơ, mộc mạc. Đức Chúa Trời đặt vào lương tri con trẻ sự
nhận biết Đấng Tạo hoá nên có thể tự nhiên thốt ra lời tán tụng Thượng Đế “Hosanna”.
Ngày nay,
“out of the mouth of babes” chỉ lời nói
ngây thơ, thành thật, ngộ nghĩnh, khiến chúng ta mắc tức cười, như câu ca dao
VN:
Có
vàng, vàng chẳng hay phô,
Có
con, con nói trầm trồ mẹ nghe.
B3. BEARING with one another and forgiving one
another: chịu đựng nhau và tha thứ
nhau. Xem thêm C3.
Nguồn
gốc: Côlôse (Colossians) 3:13
“Nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác thì hãy nhường
nhịn nhau và tha thứ nhau: như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng
phải tha thứ thể ấy” (BTT).
Bài thơ của
Tường Lưu “Làm gì đừng để Chúa đau” trong Thách Đố Tâm Linh có đoạn:
Anh em cùng
một đức tin
Hãy vì danh
Chúa, “dằn” mình, “nhịn” nhau
Làm gì, đừng
để Chúa… đau
Nữa mai… họp
mặt, nói sao… với Ngài!
Tục ngữ VN: Một câu
nhịn, chín câu lành.
Ca dao VN có bài :
Làm dâu khó lắm em ơi
Nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà đòn vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Rồi em coi sóc lấy trong cửa nhà.
Nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà đòn vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Rồi em coi sóc lấy trong cửa nhà.
Sách Mạnh Tử có câu: “Từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã” 辭 [辞] 讓 [让] 之 心 禮 [礼] 之 端 也 (lòng biết nhường nhịn là đầu mối lễ).
B4. Beatitudes: Những
mối phước (phúc). Xem B7.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 5:3-10. Tám mối phước tìm thấy trong đoạn KT Mathiơ
5:3-10 nằm trong Bài Giảng Trên Núi (Sermon on the Mount) do Chúa Giê-xu ban
phát.
Beatitude có nguồn gốc từ chữ Latin có
nghĩa là Phúc (Blessed). Mỗi mối đều bắt
đầu bằng chữ Blessed (Phúc). Người Việt
miền Bắc hay nói là chữ Phúc, còn người miền Nam gọi là Phước, tránh nói Phúc vì
kỵ huý các vua chúa nhà Nguyễn. Tương
truyền vào năm 1563, bà vợ của Nguyễn Hoàng khi mang thai người con trai
thứ sáu của Nguyễn Hoàng, nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy hồng điều
trên có nhiều chữ Phúc (福 ), lại có một chữ Phúc rất lớn rơi vào
lòng, sau đó sanh ra một trai đặt tên là
Nguyễn Phúc Nguyên, sau là Chúa Sãi. Các
con trai, cháu trai về sau của Chúa Nguyễn đều dùng chữ lót là Phúc.
Ai ai cũng
tìm phước, lánh họa. Người đời tìm cầu
phước về phương diện vật chất, như người Á Đông cầu xin Ngũ Phúc Lâm Môn (五
福 臨 門 )
là mong 5 thứ phước vào nhà mình, đó là Phú, Quý, Thọ, Khương, Ninh tức là Giàu, Sang, Sống Lâu, Khỏe Mạnh, Bình
An. Kinh
Thi chia ra năm thứ phước là (1) Giàu
(phú 富), (2) Yên lành (an ninh 安 寧), (3)
Thọ 壽 (4) Có đức tốt (du hảo đức攸 好 德 ), (5) Vui hết tuổi trời (khảo chung mệnh 考 終 命).
Chúa Giê-xu
đảo lộn tư tưởng thông thường của loài người khi Ngài đưa ra quan niệm Phúc về
phương diện tâm linh.
Xin ghi lại
8 mối phúc này theo BPT: 1Phúc
cho những ai đang nghèo khó về tâm linh, vì nước thiên đàng thuộc về họ. 2Phúc cho những ai đang buồn bã,
vì Thượng Đế sẽ an ủi họ. 3Phúc
cho những ai khiêm nhường, vì họ sẽ nhận được đất. 4Phúc cho những kẻ lúc nào cũng cố
gắng làm điều phải, vì Thượng Đế sẽ thỏa mãn họ. 5Phúc cho những ai tỏ lòng thương
xót đối với kẻ khác, vì Thượng Đế cũng sẽ tỏ lòng thương xót đối với họ. 6Phúc cho những ai có tư tưởng
trong sạch, vì sẽ được ở với Thượng Đế. 7Phúc
cho những ai mang lại hòa bình, vì Thượng Đế sẽ gọi họ là con cái Ngài. 8Phúc cho những ai bị ngược đãi vì
làm điều phải, vì nước thiên đàng là của họ.
B5. In the beginning: ban
đầu, khởi thủy.
Nguồn
gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 1:1 “In the beginning, God created the heaven and
the earth” và Giăng (John) 1:1 “In the
beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God” (KJV). :
Sáng Thế Ký 1:1 “Ban đầu Đức
Chúa Trời dựng nên trời đất.” Giăng
1:1 “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là
Đức Chúa Trời” (BTT).
Thánh John
cố ý dùng lại nhóm chữ “In the beginning”
từ sách Sáng Thế Ký để nhấn mạnh rằng Chúa Giê-xu (Ngôi Lời) chính là
Đức Chúa Trời.
B6. Bless
the Lord, O my soul:
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 103 và ở
nhiều nơi khác trong sách Thi-Thiên. Theo NIV:
Praise the Lord, O my soul.
Bless
trong trường hợp này, không phải là ban phước, mà là ca ngợi, ngợi tôn, như
trong tiếng Anh, có nhiều bản dịch là Praise (như NIV).
Bless
bắt nguồn từ tiếng Hebrew “bàrakh”. Có
5 trường hợp khác nhau của bàrakh: 1Đức
Chúa Trời ban phước cho con người, thiên nhiên, quốc gia … (Gen 1:22,
1:28, 2:3, 24:1, Psalm 33:12,
1:1-3), 2Con người ca ngợi
Đức Chúa Trời (Psalm 103:1-2), 3Con
người có thể chúc phước lẫn nhau (Matt 5:44; 1Peter 3:9), 4Người
lành thánh chúc phước trên hậu tự của mình (Gen 9:26-27), 5Con người có thể biệt riêng
vật gì ra, chúc phước nó, dùng nó vào việc thánh (1Cor 10:16).
B7. Ninth Blessing: Phước
(phúc) thứ chín.
Nguồn gốc: xem chữ Beatitudes ở trên (B4).
Ngoài 8 mối
phúc ghi trong Mathiơ (Matthew) 5:3-10, có nhiều nơi trong Kinh Thánh ghi một
vài phước khác như trong Mathiơ (Matthew) 5:11 cho biết vì danh Chúa mà bị nhục
mạ, bách hại là một điều phước.” Hoặc
trong Giăng (John) 20:29b “Ai không thấy mà tin là người có phúc thật” (BPT); Khải
Huyền (Revelation) 22:7b “Phúc cho những ai vâng giữ những lời tiên tri trong
sách này” (BPT).
Có một câu
không bắt nguồn từ Kinh Thánh được nhiều người xem như phước thứ chín: Blessed is he who expects nothing, for he
shall never be disappointed: (Phúc cho
ai không kỳ vọng vì họ sẽ không thất vọng).
Quan niệm vô cầu này phảng phất tư tưởng Lão Trang hơn là tư
tưởng Cơ Đốc.
B8. Blind leading the blind: Kẻ mù dắt người mù.
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 6:39 “Can a blind lead a blind man? Will they not both fall into a pit?” (NIV) (Kẻ
mù có thể dắt người mù được không? Không,
vì cả hai sẽ cùng té xuống hố. BPT)
Chỗ này
Chúa Giê-xu muốn nói đến những người Pharisees mù về tâm linh sẽ đưa người khác
đi lạc.
Câu này có
ý khuyên chúng ta nên cẩn thận khi chọn người lãnh đạo. Ngay cả “chọn bạn mà chơi,” chúng ta cũng cần cẩn thận vì bạn có thể đưa
mình vào chỗ tốt hay chỗ xấu.
Thành ngữ
Hán Việt có câu: “Manh nhân hạt mã” có
nghĩa người mù cỡi ngựa đui. Ý nói nguy
hiểm lắm do lấy từ 2 câu thơ: Manh nhân kỵ hạt mã, Dạ bán lâm thâm trì 盲 人 騎 瞎 馬 夜 半 臨 深 池 (Người mù cỡi ngựa đui, nửa đêm đi tới ao
sâu).
B9. This is my body,
which is broken for you:
Nguồn
gốc: 1 Côrinhtô (Corinthians) 11:24: “Đây là thân
thể ta hi sinh vì các con. Hãy làm
điều này để tưởng nhớ ta” (BPT).
Câu này
thường nhắc tới trong Lễ Tiệc Thánh (Communion Service) nhắc đến sự hy sinh của
Chúa Giê-xu cứu chuộc tội lỗi của nhân loại.
B10. Of making many books there is no end:
Nguồn
gốc: Truyền-Đạo (Ecclesiastes) 12:12 do vua Solomon viết: “Người ta chép nhiều sách chẳng cùng; còn học quá làm mệt nhọc cho xác thịt” (BTT) “of making many books there is no end; and
much study is a weariness of the flesh” (ASV).
Lời này
trong đoạn Truyền Đạo trên khuyên chúng ta không nên ôm đồm quá nhiều trong
việc đọc sách hay việc học. Đọc sách như
ăn, không cần biết là đọc được bao nhiêu mà phải xem tiêu hóa được bao
nhiêu. Đọc sách đạo không chỉ nhắm vào việc tăng kiến thức mà còn phải
nhắm vào việc thay đổi được lòng mình, bổ ích cho đời sống tâm linh của mình.
B11. Born
again: tái sinh (sinh lại).
Nguồn
gốc: Giăng (John) 3:3 NKJV ghi lời Chúa Giê–xu phán “unless one is born again, he cannot see the kingdom of God”.
“Không ai có thể vào nước Trời nếu không sinh lại” (BPT).
Sự sinh lại (tái sinh) mà Chúa Giê-xu muốn
nói tại đây không phải thuộc thể xác mà nói về tâm linh: làm chết bản ngã tội lỗi mình, tin nhận Chúa
là được sinh lại qua quyền phép của Đức Thánh Linh.
B12. Give us this day our daily bread:
cho chúng con lương thực hằng ngày.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:11; Luca (Luke) 11:3. Xem L8, B13.
Câu này nằm
trong lời cầu nguyện mẫu mà Chúa Giê-xu dạy cho môn đồ, tiếng Anh gọi là “The Lord’s Prayer” có ý tin tưởng là Đức Chúa Trời không những
cung cấp cơm gạo cho đời sống thể xác mà còn ban những sự dạy dỗ cho đời sống
tâm linh. Chính Chúa Giê-xu là lương
thực hằng ngày của Cơ-đốc nhân. Xem thêm
B13 câu: “I am the bread of life.”
B13. I am the bread
of life: Ta là bánh hằng sống.
Nguồn
gốc: Giăng (John) 6:35; 6:48. Lời phán của Chúa Giê-xu trong câu John 6:35:
“I am the bread of life. He who comes to
Me shall never hunger, and he who believes in Me shall never thirst” (NKJV). Theo BDHĐ: “Ta là bánh của sự sống. Ai đến với
Ta sẽ không bao giờ đói, và ai tin Ta sẽ không bao giờ khát nữa.”
Cơ-đốc nhân
ăn bánh hằng sống mỗi ngày bằng cách đọc Kinh Thánh (Lời Chúa), cầu nguyện,
tĩnh nguyện để tạo mối thông công với Chúa, tìm kiếm ý Chúa cho đời sống của
riêng mình. Xem thêm B14.
B14. Man does not live on bread alone:
Nguồn
gốc: Phục-Truyền (Deuteronomy) 8:3
và Mathiơ (Matthew) 4:4 “It is written, Man does not live on bread alone, but
on every word that comes from the mouth of God” (NIV).
Thánh Kinh
chép, “Người ta không phải chỉ sống nhờ bánh mà thôi mà còn nhờ vào những
lời phán của Thượng Đế” (BPT).
Đây là lời
Chúa Giê-xu nhắc lại lời trong Cựu Ước (Phục Truyền) khi bị ma quỉ cám dỗ. Ngài đã nhịn ăn 40 ngày đêm nên đói lả. Ma quỉ thách thức rằng nếu Ngài là Con Thượng
Đế thì hãy biến những viên đá thành bánh mà ăn.
Chính lời Kinh Thánh, là lời của Thượng Đế, giúp Ngài thắng được cám dỗ.
Con người
không phải chỉ có đời sống vật chất mà còn có đời sống tình cảm, tinh thần, tâm
linh. Lời Chúa có sức mạnh, có quyền
năng giúp chúng ta đắc thắng. Hằng
ngày, chúng ta có thể gặp những thách thức, cám dỗ quá lớn mà sức mình không
thể thắng được, chúng ta có thể nhờ vào Lời Chúa tức là lời Kinh Thánh để giữ mình.
B15. Cast your bread
upon the waters:
Nguồn
gốc: Truyền-Đạo (Ecclesiastes)
11:1 “Cast thy bread upon the waters:
for thou shalt find it after many days”
(KJV). “Cast your bread upon the
waters, for after many days you will find it again” (NIV). Bản dịch The Living Bible viết: “Give generously, for your gifts will return
to you later.” “Hãy liệng bánh ngươi nơi mặt nước, vì khỏi lâu ngày ngươi sẽ tìm nó
lại” (BTT). Hãy gởi
bánh con ăn trên mặt nước; Sau nhiều
ngày, con sẽ tìm thấy lại. (BDM).
Vua Solomon khuyên chúng ta nên giúp cho người khác vì sẽ có ngày chúng ta nhận lại điều tốt đẹp. Đây cũng là một hình thức luật nhân quả.
Vua Solomon khuyên chúng ta nên giúp cho người khác vì sẽ có ngày chúng ta nhận lại điều tốt đẹp. Đây cũng là một hình thức luật nhân quả.
Tục ngữ VN
có câu: “Ở xởi lởi Trời gởi cho, ở co ro
Trời lấy lại.” Câu Châm Ngôn 11:24 nói
lên ý này: “There is one who scatters,
yet increase more; and there is one who withholds more than is right, but it
leads to poverty” NKJV. “Rộng rãi cho
đi, tiền của sẽ nhiều lên, Chắt bóp quá,
lại càng thêm thiếu thốn” (TCTK).
B16. Am I my brother’s
keeper?
Nguồn
gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 4:9 “Tôi là người giữ em tôi sao?” (BTT)
“Con đâu phải là người trông nom
nó” (BDY).
Sau khi
Cain vì ganh ghét, giết em trai mình là Abel, Đức Chúa Trời hỏi Cain rằng Abel
ở đâu. Cain đáp: “bộ con là người trông nom nó sao?”
Người ta
thường dùng câu “Am I my brother’s keeper” để chối bỏ trách nhiệm của mình về
người khác.
C
C1. Render to Caesar
the things that are Caesar’s, and to God the things that are God’s:
Nguồn
gốc: Mác (Mark) 12:17
KJV.
Các lãnh tụ
Do thái muốn tìm cách bắt Chúa Giê-xu, họ phái vài người Pharisees (những người
giữ luật Do thái nghiêm nhặt) và đảng viên đảng Hêrốt (những người theo chính
quyền cai trị La mã) đến gặp để gài bẫy Ngài trong lời nói. Họ đến cùng Ngài và hỏi, “Thưa Thầy, chúng
tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy
không màng người ta nghĩ gì về mình, vì Thầy không đánh giá bề ngoài của
họ. Thầy luôn luôn dạy sự thật theo
đường lối của Thượng Đế. Xin Thầy vui
lòng cho biết: Chúng ta có nên đóng thuế
cho Xêxa hay không? Chúng ta nên đóng
hay không đóng?” Biết ý xấu của họ nên
Chúa Giê-xu bảo “Sao các ông tìm cách đánh bẫy ta? Đưa ta xem một đồng tiền.” Họ chìa ra cho Ngài xem một đồng tiền. Ngài hỏi, “Hình và danh hiệu trên đồng tiền
này là của ai?” Họ đáp, “Của Xêxa.” Chúa Giê-xu bảo họ, “Nếu thế thì cái gì
của Xêxa hãy trả lại cho Xêxa, còn cái gì của Thượng Đế hãy trả lại cho Thượng
Đế.” Bọn họ rất kinh ngạc về điều
Chúa Giê-xu nói (theo BPT). (Luke 20:9 diễn cùng ý).
Vào thời Chúa Giê-xu tại thế, xứ Do thái bị sự cai trị
khắc nghiệt của chính quyền La mã. Dân
Do thái thường chống lại việc thu thuế của chính phủ. Những người đến hỏi về việc đóng thuế để gài
bẫy Chúa Giê-xu. Nếu Chúa trả lời không
nên đóng thuế, họ sẽ tố cáo Ngài là làm loạn, chống lại triều đình và bản án là
tử hình. Nếu Chúa trả lời phải đóng thuế
là đi ngược lại nguyện vọng của người dân.
Đây là loại câu hỏi rất khó, không thể trả lời một cách đơn giản là Phải
hay Không được. Cách trả lời khôn ngoan
của Chúa Giê-xu làm cho bọn người này phải câm miệng (chúng ta thấy một trường
hợp tương tự khi họ đem người đàn bà xấu nết đến cho Chúa xử). Vế thứ hai trong câu đáp của Chúa “cái gì của
Thượng Đế hãy trả lại cho Thượng Đế” ngụ
ý nhắc cho họ nhớ lại rằng đời sống tinh thần của con người là thuộc về Thượng
Đế, có nhớ trả lại cho Thượng Đế không?
Ngày nay, nhiều người nhắc lại câu “Cái gì của Xêxa trả lại cho Xêxa”,
mà không biết đến vế thứ hai.
C2. Kill the fatted calf:
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 15. Lấy từ sự tích “đứa con hoang đàng” trong
Luke 15. Một người cha có 2 đứa con
trai. Đứa con nhỏ đòi chia gia tài rồi
đem phần tài sản này ăn tiêu phung phí tại nơi xa. Khi tiêu vừa hết tiền thì trận đói kém lại
xảy ra, nó phải chăn heo cho người ta để có thức ăn. Phải làm việc cực nhọc mà ăn không đủ no, nó
nghĩ lại hối tiếc những ngày còn ở nhà cha mà tìm đường trở về. Khi nó về tới nhà, người cha không trách
mắng, còn bảo tôi tớ giết bê mập ăn mừng.
Câu “kill
the fatted calf” tương tự như câu “mổ trâu, giết bò, giết heo, làm gà” để khao,
để thết yến tiệc trong bất cứ trường hợp nào.
C3. Turn the other cheek: Đưa má bên kia. Xem thêm B3.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 5:38-39. Theo bản NKJV: “You have heard that it was
said, ‘An eye for an eye, and a tooth for a tooth’ but I tell you not to resist
an evil person. But whoever slaps you on
your right cheek, turn the other to
him also.” BPT dịch lời dạy của Chúa
Giê-xu: “Các con có nghe nói, ‘Mắt đền mắt, răng đền răng.’ Nhưng ta bảo các con: Đừng chống trả kẻ ác. Nếu ai tát má bên mặt, đưa luôn má bên trái cho
họ.” Câu tương tự thấy trong Luke
6:29 “Ai vả ngươi má bên nầy, hãy đưa luôn má bên kia cho họ; còn nếu
ai giựt áo ngoài của ngươi, thì cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong” (BTT).
Một
câu trong sách Isaiah 50:6 nói tiên tri về
Chúa Giê-xu: “I gave My back to those who struck Me, and My cheeks to
those who plucked out the beard; I did not hide My face from shame and
spitting.” BDY đã diễn tả câu này: “Tôi
đưa lưng cho người ta đánh và đưa má cho người ta tát. Tôi không che mặt khi bị người ta sỉ vả và
khạc nhổ vào mặt.”
Đây nói lên một tiêu chuẩn đời sống đạo rất
cao của Cơ-đốc giáo: chẳng những không
báo thù, mà còn nhịn nhục, thậm chí yêu kẻ thù mình và cầu nguyện cho họ.
Xin xem câu chuyện nhẫn nhịn bên Tàu: Một danh sĩ
đời Đường bên Tàu tên là Lâu Sư Đức làm đến Tể tướng có người em trai tánh rất
háo thắng, thường dạy dỗ, nhắc nhở em nên nhẫn nhịn để tránh tai họa. Một hôm, người em được bổ làm Thứ sử Đại
Châu, đến từ biệt anh. Ông Lâu Sư Đức
nói: “Anh
em mình nhận ân sủng quốc gia quá nhiều, vinh hoa cũng quá rồi. Điều này sẽ khiến cho người khác ghen ghét đố
kỵ. Em có cách gì tránh được nguy hiểm
không?” Người em khoe: “Bây giờ, nếu có
ai nhổ nước bọt vào mặt em thì em sẽ lau và không phản ứng gì lại họ đâu. Như vậy là tránh được phiền phức.” Lâu Sư Đức lắc đầu nói: “Không được lau. Khi người ta nhổ nước bọt vào mặt em là lúc
đó họ đang giận dữ vô cùng. Nếu em lau
khô nước bọt trên mặt đi tức là em tỏ vẻ phản kháng, lau cho sạch cái dơ bẩn đó
đi và càng làm cho họ thêm tức giận, như thế thì như thêm dầu vào lửa. Em không được lau mà phải để nó tự khô đi,
lúc đó họ cũng đã nguôi giận rồi nên không còn nguy hiểm nữa.” Từ sự tích trên, người đời sau có thành ngữ
“thóa diện tự can” 唾面自乾 (nước miếng nhổ lên mặt
cứ để tự nó khô đi, để diễn tả độ lượng quảng đại, nhẫn nhịn của một người hiền
lành (theo Thông Dụng Thành Ngữ Cố Sự
của Vương An).
C4. Spare the rod and spoil the child:
kiêng đòn, con hư.
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 13:24. Châm ngôn:
“Ai kiêng roi chính là ghét con
mình, Chăm sửa trị mới là tình thương lớn” (TCTK).
Nhiều thanh
thiếu niên hiện nay đang hư hỏng vì được
cha mẹ quá nuông chiều. Ca dao, tục ngữ
VN: “Thương con cho roi, cho vọt; Ghét con cho ngọt cho bùi.”
Uốn cây từ
thuở còn non,
Dạy con từ
thuở con còn trẻ thơ. (CD)
Sách Minh Đạo Gia Huấn
của Trình Di ghi lại câu cách ngôn:
“Nuôi con trai mà không dạy, chẳng bằng nuôi lừa; nuôi con gái mà không dạy, chẳng bằng nuôi
heo” (Dưỡng nam bất giáo, bất như dưỡng
lư; dưỡng nữ bất giáo, bất như dưỡng trư
養 男 不 教 不 如 養 驢, 養 女 不 教 不 如 養 豬.)
Đẻ con chẳng
dạy, chẳng răn,
Thà rằng nuôi
lợn mà ăn lấy lòng. (CD)
Tuy
nhiên, cha mẹ không nên vin vào câu “kiêng đòn, con hư” này mà đối xử quá khắc
nghiệt, ngược đãi con cái. Trẻ em dưới
12 tuổi cần một nền giáo dục quân bình giữa tình thương và kỷ luật.
C5. Train up a child
in the way he should go:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 22:6,
“Train up a child in the way he should go, and when he is old, he will not
depart from it” NKJV. Châm Ngôn 22:6 “Hãy dạy trẻ thơ đường công chính phải đi,
Đến già lão vẫn không hề lìa khỏi” TCTK.
Bài thơ Children
Learn What They Live của Dorothy
Law Nolte (1924 – 2005) nói về môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến trẻ
như thế nào: If children live with criticism, they learn to condemn…
(Quý
vị có thể tìm nguyên bài này trên internet).
C6. When I was a child, I spoke as a child:
Nguồn
gốc: 1 Côrinhtô (Corinthians) 13:11 “Khi
tôi là con trẻ, tôi nói như con trẻ”:
Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng khi ông thành niên, ông không làm, không
nghĩ tới những điều trẻ con nữa. Về Đức
Chúa Trời, ngày nay chúng ta chỉ biết thật rất ít, chờ đến ngày gặp Chúa, chúng
ta hiểu rõ hơn. Vì cái nhìn, cái hiểu biết
của chúng ta rất hạn hẹp, nên tránh phán đoán, lên án, kết tội người khác.
C7. Children,
obey your parents: Xem Obey (O1).
C8. Let the children
come to me:
Nguồn
gốc: Mác (Mark) 10:14-15. Lời Chúa phán: “Hãy để trẻ con đến với Ta”. Xem
thêm Mat 19:14.
Chúa
Giê-xu rất yêu trẻ con. Ngài dạy phải có
tâm tình như trẻ thơ thì mới thấy được nước Thiên Đàng: “Có một số người mang các trẻ thơ đến cùng
Chúa Giê-xu để Ngài đặt tay lên chúng nó, nhưng các môn đệ ngăn cấm. Chúa Giê-xu thấy vậy không bằng lòng, mới bảo
họ rằng: ‘Hãy để cho các trẻ thơ đến cùng ta, đừng ngăn cấm, vì nước Trời thuộc
về những ai có lòng như chúng nó. Ta bảo
thật, các con phải tiếp nhận nước Trời giống như một trẻ thơ, nếu không các con
sẽ không thể vào đó được đâu.’ Rồi Ngài
bồng chúng nó, đặt tay lên và ban phước cho chúng” (Mác 10:13-16 BPT.)
Xem thêm Luke 18:16.
Chúng
ta thích trẻ thơ vì chúng có tính hồn nhiên, chất phác, đôn hậu, nhu mì và dễ
tha thứ. Vì vậy, Mạnh Tử trong sách Ly
Lâu hạ, chương 12 dạy “Bậc đại nhân
cũng không nên mất tấm lòng con đỏ” (Đại nhân giả, bất thất kỳ xích tử chi
tâm dã 大 人 者 不 失 其 赤 子 之 心 也.). Lão Tử qua Đạo Đức Kinh chương 28 khuyên
người lớn muốn thấy đạo, nên “trở về như trẻ thơ” (Phục qui ư anh nhi 復 歸 於 嬰 兒
). Trẻ con cũng có tánh vâng phục trọn
vẹn và tin cậy trọn vẹn một cách dễ thương.
Nhà truyền giáo George MacDonald (1824-1905) cho rằng một người lành,
một Cơ Đốc nhân đúng nghĩa là người luôn luôn có chỗ để trẻ con đến với mình.
Một
lần, các môn đệ hỏi Chúa ai là người lớn nhất trong nước Trời. Chúa bèn chỉ một đứa trẻ và dạy “Các con phải
thay đổi và trở nên giống như trẻ thơ.
Nếu không, các con không thể vào nước Trời được. Người khiêm nhường như trẻ thơ là người lớn
nhất trong nước Trời” (theo Mathiơ 18:1-4). Có lẽ lúc đó, các môn đệ mới biết ý của Chúa Giê-xu. Ngài đến thế gian không phải xây dựng nước
trên thế gian, mà là xây dựng nước Trời.
Nước Trời thì trái nghịch với nước đời.
Ai muốn vào nước Trời phải làm chết bản ngã của mình, phải bỏ tánh tự
cao, tự phụ để trở về tánh khiêm nhu,
coi người khác trọng hơn mình.
Bác sĩ Luca ghi lại lời Chúa Giê-xu: “Người hèn mọn nhất trong các con
là người cao trọng nhất” (He who is least among you all will be great. Luke 9:48).
Như con trẻ, người muốn vào nước Trời sẽ không dùng mưu mô, không nghi
ngờ sự dữ, không bêu rếu cái xấu của người, không lằm bằm, cay đắng, quên rất
nhanh lỗi lầm của người; tin tưởng vào
lòng tốt, vào tánh thiện của người. Cũng
như một hài nhi còn đỏ hỏn, người muốn vào nước Trời sẽ đơn sơ trông cậy vào ân sủng của Chúa, và
hoàn toàn vâng phục ý chỉ của Ngài vì biết mình bất toàn, bất lực.
C9. Come
to me (hoặc COME unto me):
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 11:28 “Come to me, all you who labor and are heavy
laden, and I will give you rest” (NKJV).
“Những ai mệt mỏi và nặng gánh, hãy đến
cùng ta. Ta sẽ cho các ngươi được
nghỉ ngơi” (BPT).
Đây là lời
mời gọi của Chúa Giê-xu đến với những người đang lao khổ, mệt nhọc thể xác và
tinh thần. Nếu đến với Chúa, Ngài sẽ cất
gánh nặng trên vai hoặc trong lòng đi, Ngài sẽ ban sự bình an cho tâm hồn, cùng
sự yên nghỉ trong Chúa.
Về phương
diện thần học: nhân loại hiện nay đang
sống dưới thời đại ân điển của Chúa, nên không cần làm gì nhọc nhằn hay bo bo
giữ luật pháp để được sự cứu rỗi, mà chỉ cần đến với Chúa, mở lòng mình
tiếp nhận Chúa Giê-xu vì Ngài là con đường mới, đưa con người hoà giải cùng Đức
Chúa Trời. Trong Thi-Thiên (Psalm), câu 55:22 có ý nghĩa tương tự: “Cast your cares on the Lord and he will
sustain you; he will never let the righteous fall” (NIV).
“Người
công chính, hãy trao Ngài gánh nặng,
Chúa
đỡ nâng, chẳng dao động chuyển lay” (TCTK).
C10. If you love me, keep my commandments:
Nguồn
gốc: Giăng (John) 14:15 (NKJV) “Nếu các con yêu ta thì sẽ vâng giữ những lời
dạy của ta” (BPT); “Nếu các con yêu kính Ta, các con sẽ giữ các
điều răn Ta” (BDM).
Chúa Giê-xu
phán điều này sau Bữa Tiệc Ly Cuối Cùng (The Last Supper).
C11. You shall not covet… (KJV: Thou
shalt not covet):
Nguồn
gốc: Exodus (Xuất-Hành) 20:17 “You
shall not covet your neighbor’s house.
You shall not covet your neighbor’s wife, or his manservant or
maidservant, his ox or donkey, or anything that belongs to your neighbor” (NIV). “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng
đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ
lân cận ngươi” (BTT).
Đây là điều
răn thứ mười trong 10 điều răn ghi trong
Cựu Ước mà Đức Chúa Trời truyền cho dân sự qua ông Moses.
C12. Take up his CROSS daily: Xem thêm C16.
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 9:23 “Jesus said unto all, If any man would come
after me, let him deny himself, and take
up his cross daily, and follow me” (ASV);
“Ngài phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi,
mỗi ngày vác thập tự giá mình mà
theo ta (BTT).
Trong Tâm Linh Thi Tập 11 (2006), thi
sĩ Tường Lưu viết trong bài “Quên Mình”:
Vác
là nặng! Đường thuộc linh, đường hẹp
Thập
tự mình, mình vác sẽ … oằn vai
Tự
bỏ mình thì nặng ấy … nhẹ ngay
Vác
thập tự, quên mình: Dư sức vác.
C13. Crown of glory: Xem
thêm G15.
Nguồn
gốc: 1 Phiêrơ (Peter) 5:4 “Khi Chúa Cứu Thế là Đấng Chăn Chiên Trưởng đến,
anh em sẽ nhận được mão triều vinh hiển
không bao giờ phai.” (theo bản dịch Niềm Hy Vọng). Cũng gặp trong Châm-Ngôn (Proverbs)
16:31
Tóc
bạc là mão triều thiên vinh hiển
Cho
ai theo đường lương thiện, công bình.
Vương miện (mão triều thiên) vinh hiển: phần thưởng danh dự quý giá dành cho người
đắc thắng.
C14. Cup of cold
water:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 10:42 “If anyone gives even a cup of
cold water to one of these little ones because he is my disciple, I tell you
the truth, he will certainly not lose his reward” (NIV).
“Ai cho một trong những người bé
mọn này chỉ một ly nước lạnh vì người đó là môn đệ Ta, thật, Ta bảo các con, người
ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.”
(BDM).
Ca dao
VN:
Miếng
khi đói, gói khi no.
Của
tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.
Nhóm từ này
chỉ sự giúp đỡ tuy nhỏ bé, nhưng đúng lúc vẫn có giá trị lớn.
C15. My cup
runs over (NKJV),
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 23:5 “Chén
tôi đầy tràn”. My cup
overflows (NIV). Xem
P9.
Vua David
muốn ám chỉ rằng ơn phước của Chúa làm ông được vui sướng.
C16. Remove this CUP from
me: lấy chén này ra khỏi tôi. Xem thêm C12.
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 22:42.
Trong Tân Ước, chén chỉ về nỗi thống khổ. Trong câu KT này, Chúa Giê-xu xin khỏi uống
“chén đắng”, tuy nhiên Chúa Giê-xu sẵn sàng làm theo ý Cha, là chịu hành hình
trên thập tự giá.
Thi
sĩ Linh Cương diễn tả:
Giê-xu
Christ thương người nên xuống thấp
Chịu
đắng cay khổ nhục huyết tuôn tràn
Phó
mạng vàng đền nợ tội nhân gian
Ban
sự sống, bình an, niềm vui thánh.
D
D1. This is the day
the Lord has made:
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 118:24 “This is the day the Lord has made; let us
rejoice and be glad in it” (NIV).
Đây
là ngày Chúa tạo ra,
Chúng con tận hưởng, hoan ca vui mừng.
D2. Each day
has enough trouble of its own:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:34b (NIV) Mỗi
ngày có đủ việc để lo rồi. (BPT). Xem thêm W15.
Đừng
lo chi lắm mai hay mốt
Ngày
hôm nay lao nhọc đủ phần!
Những cách
diễn tả khác: One day at the time; Seize the moment; Seize the day (carpe diem); Seize the day, put no trust in the morrow
(carpe diem, quam minimum credula postero); Quá
nhất nhật, đắc nhất nhật (過 一 日 得 一 日).
Trong bài
“Đừng Làm Mình Thêm Khổ”, Tường Lưu
diễn tả ý này:
Lời
Chúa dạy đừng làm mình thêm khổ
Sống
ngày nay sự khó nhọc đủ rồi
Lo
lắng gì tình trạng cũng thế thôi
Muốn
một khắc đời dài thêm đâu được!
Suốt
ngày làm đã lao tâm, lao lực
Khi
đêm về ta hãy tạm… ngưng tay
Đừng
bắt mình lo lắng chuyện ngày mai
Việc
ngày mai để ngày mai sẽ liệu!
D3. Let the DEAD bury their dead:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 8:22
“để kẻ chết chôn kẻ chết” (BPT).
Chúa Giê-xu
phán cùng người môn đồ muốn về chôn cha: “Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ
chết” là nói về phần tâm linh. Để người hư mất phần thuộc linh lo cho người
hư mất. Nhiều người có thể hiểu lầm đoạn
Kinh Thánh này cho rằng Chúa không cho báo hiếu, thực ra Ngài nhấn mạnh phần
tâm linh đối với môn đồ của Ngài. Cha
người môn đồ này thực sự chưa chết, nhưng người mượn cớ này để tránh hoặc khất
việc theo Chúa.
D4. The DEVIL can quote Scripture for his own
ends: Ma quỷ có thể dùng Kinh Thánh cho mục đích của nó.
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 4:5-6.
Trong đoạn này, ông Matthew có kể câu chuyện Satan đưa
Chúa Giê-xu vào thành Jerusalem
và đặt Ngài lên một điểm cao của đền thờ.
Nó thách thức Chúa hãy nhảy xuống đi và nó dẫn chứng câu KT lấy trong Thi-Thiên
(Psalm) 91:11-12 “Ngài sẽ sai thiên sứ bảo vệ ngươi. Thiên sứ sẽ giữ ngươi trong tay để chân ngươi
khỏi vấp phải đá” (theo BPT).
Câu “the devil can quote Scripture for his own ends” muốn
nói là ai cũng có thể dẫn chứng Kinh Thánh để biện hộ cho việc làm không tốt
của mình. Chỉ người có lòng kính sợ Chúa
mới thường âm thầm dùng lời Chúa để tự sửa mình.
D5. It is better for me to DIE than to live:
Nguồn
gốc: Giôna (Jonah) 4:8 “Đối với tôi, chết còn tốt hơn sống”. Jonah
nói câu này khi dây dưa che mát cho ông bị con sâu cắn chết. Ông bị nắng dọi xuống đầu, muốn ngất đi, nên
cầu chết.
D6. The hand of the diligent makes rich:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 10:4 “He
who has a slack hand becomes poor, but the hand of the diligent makes
rich” NKJV.
Tay
lười biếng chịu nghèo nàn,
Tay
làm chăm chỉ giàu sang mấy hồi.
Các câu
ngạn ngữ tương tự: Diligence is the mother of good luck; Early
to bed and early to rise, makes a man healthy, wealthy and wise; Early birds catch worms; Hay lam, hay làm quanh năm chẳng lo đói; Cần cù bù thông minh
MTBG: Kế hoạch một đời người là ở siêng năng, kế
hoạch một năm là ở mùa xuân. (Nhất
sinh chi kế tại ư cần, nhất niên chi kế tại ư xuân: 一 生 之 計 在 於 勤 一 年 之 計
在 於 春 ).
D7. DO this in remembrace of me: Xem
R2.
D8. For they say, and DO not (do) hay
they do not practice what they preach:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 23:2-3, “The
teachers of the law and the Pharisees sit in Moses’ seat. So you must obey them and do everything they
tell you. But do not do what they do,
for they do not practice what they
preach” NIV.
“Các giáo sư luật và người Pharixi có quyền
bảo các ngươi những gì luật Môise dạy.
Cho nên các ngươi hãy vâng giữ theo điều họ khuyên dạy nhưng đừng noi
gương đời sống của họ. Vì họ dạy các
ngươi một đằng mà làm một nẻo.” (BPT).
Châm ngôn,
ngạn ngữ khác: “Năng thuyết bất năng hành.” (能 說 不 能 行). Người Âu Mỹ lại thường nói: “Actions speak louder than words”. Ca dao VN có những câu khuyên chúng ta nên làm
những gì mình nói, mình dạy, hay mình đã quyết tâm:
Ai ơi đã quyết thì hành,
Đã đốn thì vác cả
cành lẫn cây
hay:
Ai ơi đã quyết thì hành,
hay:
Ai ơi đã quyết thì hành,
Ðã đan thì lận, tròn vành mới thôi.
D9. DO unto others as you would they should DO
unto you:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 7:12
ghi lại một Luật vàng (Golden
Rule) trong giao tế do Chúa Giê-xu dạy:
“Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con.”
Hãy xem lời dạy của Khổng
Phu Tử trong Luận Ngữ chương 15, câu 23 khi Tử Cống (học trò người nước Vệ) hỏi
ông: “Có một lời nói nào mà có thể trọn đời thực hành không?” Khổng Tử đáp:
Đó là chữ THỨ (恕 ) nghĩa là “Điều gì mình không muốn thì chớ làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân 己 所 不 欲 勿 施 於
人). Có lẽ nhờ nắm bí quyết này mà Tử Cống được
khen là giỏi giắn trên thương trường. So
sánh hai lời dạy của Chúa Giê-xu và của Khổng Tử, chúng ta thấy lời dạy của Chúa
tích cực hơn.
D10. Do not take (grab) a DOG by the ears:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 26:17 “He
who passes by and meddles in a quarrel not his own is like one who takes a dog by the ears” NKJV. Dịch: “Kẻ nổi giận về cuộc tranh
cãi không liên hệ đến mình, khác nào người nắm tai của con chó chạy rông.” (Bản
Truyền Thống Hiệu Đính 2011)
TCTK chuyển
thơ câu Châm Ngôn này:
Đi qua đường
thấy người đang tranh cãi,
Chẳng dính đến
mình, cũng nhẩy vô ngay,
Nổi giận đùng
đùng, tìm cách “ra tay”,
Là ngu dại như
nắm tai chó dữ.
Châm ngôn,
ngạn ngữ khác:
Hàm chó, vó ngựa.
Xỉa răng cọp, vuốt râu hùm.
Mind your own
business.
Cổ-ngạn có câu:
Các
nhân tự tảo môn tiền tuyết,
Mạc quản tha nhân ốc thượng sương
各人自掃門前雪, 莫管他人屋上霜.
Không lo quét
tuyết nhà ta, Lại lo sương đọng mái nhà cận
lân.
D11. The dog
returns to his vomit:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 26:11 “The
dog returns to his vomit, so the fool returns to his folly”.
Người
dại làm lại lỗi xưa,
Như
chó liếm lại thức vừa mửa ra.
Có 2 nghĩa trong câu Châm
Ngôn này: 1. Ngựa quen đường cũ; chứng
nào tật ấy; tình trạng cũ nẩy mầm trở lại:
cố thái phục manh 故態復萌; 2. Kẻ phạm tội trở lại phạm trường: vì tánh hiếu kỳ và vì lòng bất an của người
phạm tội khiến họ trở lại nơi họ gây tội ác để nghe ngóng, nên có câu nói “lương tâm phạm tội không cần người cáo buộc”
(a guilty conscience needs no accuser).
D12. A living DOG is better than a dead lion:
Nguồn
gốc: Truyền-Đạo (Ecclesiastes)
9:4 “Còn sống mới còn hy vọng. Một con chó sống hơn một con sư tử chết” (BDY).
Sư
tử chết không bằng chó sống
Người
còn thở, hy vọng vẫn còn.
Tục Ngữ
VN: Người sống (hơn) đống vàng.
D13. I stand at the DOOR and knock:
Nguồn
gốc: Khải Huyền (Revelation) 3:20 “Behold, I stand at the door and knock. If anyone hears My voice and opens the door,
I will come in to him and dine with him, and he with Me” (NKJV). “Nầy ta đang đứng gõ nơi cửa. Nếu ai nghe tiếng ta và mở cửa thì ta sẽ vào
dùng bữa với người ấy và người ấy với ta”
(BPT).
Ý nghĩa thuộc
linh của câu KT này là Chúa luôn luôn muốn tạo lập mối liên hệ tâm linh với
loài người.
D14. Doubting
Thomas: Ông Thôma nghi ngờ.
Nguồn
gốc: Theo Giăng (John) 20:24-29, Thôma, một trong 12 môn đệ, không có mặt khi
Chúa Giê-xu hiện ra (sau khi phục sinh).
Các môn đệ khác quả quyết là đã thấy Chúa, nhưng Thôma bảo: “Nếu tôi không thấy dấu sẹo đinh nơi tay Ngài
và nếu ngón tay tôi không rờ được dấu đinh và tay tôi không đụng vào hông Ngài
thì tôi không tin.” Một tuần sau đó,
Chúa Giê-xu hiện ra, cho Thôma sờ vào tay và hông của Ngài. Lúc này Thôma mới tin. Đức Chúa Giê-xu phán: “Vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin.
Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!”
Châm Ngôn, Ngạn Ngữ khác: Nóng như Trương Phi, nghi như Tào Tháo; I’m from Missouri! Show me!
Châm Ngôn, Ngạn Ngữ khác: Nóng như Trương Phi, nghi như Tào Tháo; I’m from Missouri! Show me!
D15. For DUST you are, and to dust you shall
return:
Nguồn
gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 3:19 (NKJV).
Lời Đức Chúa Trời phán cùng Adam:
“Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về
đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là
bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (BTT). Xem
thêm H6, V2.
Trong các
đám táng Âu Mỹ, vị chủ lễ rải đất lên quan tài và nói: “Đất về với đất, tro về với tro, bụi về với
bụi” (earth to earth, ashes to ashes, dust to dust) để nhắc nhở những người hiện
diện rằng mọi người rồi sẽ chết. Cát bụi
sẽ trở về với cát bụi.
Thân như điện ảnh hữu hoàn
vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu
khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu
phô
(Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi, thu lại khô héo, Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi, Thịnh suy
như sương đọng trên ngọn cỏ.)
Châu Sa dịch:
Thân bóng
chớp, có rồi không
Cây xuân tươi
tốt, thu đông héo rầu
Thịnh suy chớ
khá ưu sầu,
Như làn sương
mỏng trên đầu cỏ non.
E
E1. EARS to hear:
Tai để nghe. Xem thêm H4.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 11:15 “Ai có tai để nghe, hãy nghe…” (NKJV: He who has ears to hear, let him hear!).
E2. EARTH was without form, and void or “the earth was formless and empty.”
Nguồn
gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 1:1-2. “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời
đất. Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực” (BTT); “Ban đầu, Thượng Đế sáng tạo trời đất. Đất
chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ rệt. Bóng tối che mặt vực thẳm …” (BDY).
E3. EAT, drink, and be merry:
Nguồn
gốc: Truyền-Đạo (Ecclesiastes) 8:15.
Vua Solomon
khuyên người dân dù lao khổ trong đời sống hằng ngày cũng có lúc phải hưởng thụ, “… vì dưới mặt trời chẳng có điều gì tốt cho
loài người hơn là ăn, uống và vui sướng”
(BTT). Ca dao Việt Nam:
Chẳng
ăn, chẳng mặc, chẳng chơi,
Bo
bo giữ lấy của Trời làm chi?
Trong Luca
(Luke) 12:19-20, Chúa Giê-xu kể lại câu chuyện ngụ ngôn về người nông dân giàu
kia trúng mùa, xây cất kho chứa mới, thấy tài sản mình nhiều có thể ăn tiêu
trong nhiều năm bèn tự nhủ: “Thôi, ta hãy nghỉ ngơi, ăn uống và vui chơi.” Nhưng,
không ngờ tối hôm đó, người phải chết.
Chúa Giê-xu dùng câu nói của Solomon để nhấn mạnh một khía cạnh khác là
nếu một người chỉ biết lo nghĩ đến vật chất, nghĩa là chỉ ăn uống vui chơi, mà
không nghĩ gì đến đời sống tâm linh là kẻ dại.
E4. EAT, drink, and be merry, for tomorrow we die:
Nguồn
gốc: Êsai (Isaiah) 22:13; 1 Côrinhtô (Corinthians) 15:32;
Isaiah 22:13
“Let us eat and drink; for tomorrow we shall die” (ASV).
1 Côrinhtô 15:32b “Nếu kẻ chết chẳng sống lại, thì hãy ăn, hãy uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!” (BTT).
So với E3, câu E4 là cách nói phản đề, Phao-lô nhắc chúng
ta nhớ tới đời sống thuộc linh trường tồn sau khi cơ thể chết. Sử gia Hy Lạp là Herodotus kể lại một tập tục
của người Ai Cập (họ tin rằng chết là hết):
Trong những cuộc họp mặt xã giao
của giới giàu sang, khi bữa dạ tiệc kết thúc, một tên đầy tớ đi vòng quanh các
quan khách, vai vác một chiếc quan tài dài khoảng một hai thước, bên trong có
một tượng xác chết bằng gỗ được chạm trổ và sơn màu giống như người thật. Mỗi lần đưa cho một vị quan khách, tên đầy tớ
nói ‘Hãy nhìn đây, hãy ăn uống và vui vẻ, vì ông sẽ chết, đó là số phận của
ông’.
E5. Love your enemies:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 5:44-46 “ta bảo các con, hãy yêu thương kẻ thù
mình. Cầu nguyện cho kẻ làm tổn thương
mình. Làm như thế các con mới chứng tỏ
mình là con cái thật của Thượng Đế…(BPT)
Ở đây,
chúng ta thấy sự khôn ngoan của Chúa khác với sự khôn ngoan của loài
người. Theo ông William Barclay, lời dạy
này của Chúa Giê-xu mô tả sự thiết yếu của Cơ đốc giáo trong hành động. Dầu cho người chẳng bao giờ đi nhà thờ cũng
biết Chúa Giê-xu đã phán điều này; họ
thường lên án những Cơ đốc nhân hữu danh vô thực vì đã thiếu sót trong việc giữ
đạo yêu thương của Ngài. Từ ngữ “yêu thương” ở đây dịch từ chữ agape
trong tiếng Hi Lạp. “Khi chúng ta tôn
kính người nào với agape có nghĩa là dù người ấy làm gì cho ta, đối xử với ta
thế nào, dù người ấy sỉ nhục ta, làm tổn thương và làm buồn ta cách nào thì ta
cũng không bao giờ để sự cay đắng chống nghịch người xâm nhập lòng ta, nhưng ta
vẫn tôn trọng người ấy với thành tâm và thiện chí không gì lay chuyển nổi…”
(GNKT).
E6. Lamp of the body is the EYE:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:22: Mắt là đèn của thân thể (BDHĐ).
Theo nhà
giải kinh William Barclay, chính lòng ganh tỵ, óc thiên kiến và tánh tự phụ làm
lệch lạc nhãn quan của chúng ta. Ngược
lại, ai có lòng rộng rãi sẽ có cặp mắt bao dung. Câu châm ngôn “Con mắt là cửa sổ của linh hồn” (The eyes are the windows of the
soul) thường thấy trong văn học.
E7. EYE for an eye, tooth for a tooth:
Nguồn
gốc: Phục-Truyền (Deuteronomy) 19:21 “Your eye shall not pity: life
shall be for life, eye for eye, tooth for tooth, hand for hand, foot for foot” (NKJV).
“Đừng thương hại, vì mạng đền mạng, mắt
đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” BDY. Đây là luật công bình của thời Cựu Ước. Trong Mathiơ
(Matthew) 5:38, Chúa Giê-xu lập lại
câu “mắt đền mắt” này, và nhấn mạnh đến luật yêu thương từ câu 39 đến 42 “Song ta bảo các ngươi, đừng chống cự kẻ dữ.
Trái lại, nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn; nếu ai muốn kiện ngươi đặng
lột cái áo vắn, hãy để họ lấy luôn cái áo dài nữa; nếu ai muốn bắt ngươi đi một dặm đường, hãy đi
hai dặm với họ. Ai xin của ngươi hãy
cho, ai muốn mượn của ngươi, thì đừng trớ”
(BTT). Xem thêm G7.
E8. EYE of a needle:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 19:24 “It is easier for a camel to go through the
eye of a needle that for a rich man to enter the kingdom of God” (NKJV).
Lạc
đà qua dễ lỗ kim,
Hơn
nhà triệu phú đi tìm nước Cha.
Một người
quyền thế trẻ tuổi giàu có hỏi Chúa bí quyết để có cuộc sống đời đời. Chúa biết lòng dạ anh ta, bèn bảo anh bán hết
gia tài phân cho người nghèo, thì anh buồn bã bỏ đi. Chúa phán cùng môn đồ câu trên.
F
F1. FAITH as small as mustard seed:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 17:20 “Nếu đức tin các con chỉ lớn
bằng hột cải thôi, các con có thể nói với hòn núi này rằng, ‘Hãy dời từ đây qua
đó’, thì nó sẽ dời đi. Việc gì các con
làm cũng được cả.” Vì vậy, chúng ta còn
thấy câu: “Faith will move mountain.”
F2. FAITH, hope, charity:
Nguồn
gốc: 1 Côrinhtô (Corinthians) 13:13 “Chỉ có 3 điều này là còn mãi:
đức tin, hi vọng và tình yêu thương. Mà
điều cao quí hơn cả là tình yêu thương.”
Về 3 điều này, bản dịch Công giáo là:
đức tin, đức cậy, đức mến.
Chữ “charity”
trong tiếng Anh vào những thế kỷ trước được hiểu như “love” hiện nay.
F3. FATHER, forgive them; for they know not what
they do:
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 23:34.
Chúa Giê-xu cầu nguyện khi bị treo trên cây thập tự “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết họ
làm điều gì.” (BDHĐ). Chúa Giê-xu
chịu thọ hình để gánh tội cho thế gian.
Đây là chương trình cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời.
F4. FEET of clay: bàn chân bằng đất sét.
Nguồn
gốc: Đaniên (Daniel) 2:33-45. Đoạn này kể lại tiên tri Daniel giải mộng cho
một ông vua thấy một pho tượng to lớn, rực rỡ, có đầu bằng vàng, ngực và tay bằng
bạc, bụng và vế bằng đồng, ống chân bằng sắt, bàn chân thì bằng sắt pha trộn với
đất sét. Sắt và đất sét không ăn, không
dính vào nhau nên dễ bị tan rã.
Về nghĩa bóng,
“Feet of clay” chỉ nhược điểm, tức chỗ yếu đuối của con người.
F5. FIRST will be last:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 19:30 “first will be last and the last first” (NKJV). Chúa Giê-xu ngụ ý rằng trong tương lai, nhiều người ở địa vị cao
(trên trần thế) sẽ bị đem xuống chỗ thấp nhất (trong nước Trời), còn nhiều
người hiện ở địa vị thấp nhất (trên trần thế) sẽ được mang lên chỗ cao nhất (trên
nước Trời), tùy thái độ và cách cư xử của mình trong đời sống hiện tại.
F6. Fishers
of men:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 4:19, Chúa Giê xu kêu gọi: “Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi
nên tay đánh lưới người” (BTT).
Trong các
môn đồ của Chúa Giê-xu, các ông Peter, Andrew, James và John là các ngư phủ,
sống bằng nghề đánh cá trên biển Galilee. Họ đã nghe theo lời kêu gọi của Chúa Giê-xu mà
bỏ chài, bỏ lưới, bỏ thuyền câu, theo Chúa và trở thành những người truyền giáo.
F7. Two shall be one FLESH:
Nguồn
gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 2:24 cho biết rằng người đàn ông sẽ
rời cha mẹ mình, để kết hợp với vợ mình thành một thịt.
Trong Mathiơ
(Matthew) 19:6, Chúa Giê-xu nhắc lại lời trong Sáng Thế Ký 2:24 trên và kết luận: “Cho nên, họ không còn là
hai người nữa, mà chỉ là một. Vì Đức
Chúa Trời đã kết hợp hai người, cho nên không ai được phân rẽ họ.”
Chúa
Trời đã kết mối duyên,
Xin
đừng chia thúy rẽ uyên tội tình!
Hay câu khác:
Vợ
chồng Chúa đã an bài,
Đừng
ai chia rẽ duyên hài lứa đôi.
F8. Follow
me:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 4:19
Xim
xem: Fishers of men (F6).
F9. Even a FOOL is counted wise when he holds his
peace:
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 17:28 “Im lặng là khôn dù thực chất dại ngu, Giữ
miệng lưỡi được coi như thông sáng.”
TCTK. Câu Châm Ngôn này đề cao
sự im lặng. Nói là bạc; im lặng là vàng.
Chúng ta dù ngu dại
Chẳng mở miệng nói càn
Lắng nghe trong im lặng
Được kể là khôn ngoan.
F10. Do not answer a FOOL: Đừng trả lời kẻ dại.
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 26:4-5 “Do not answer a fool according to his folly,
lest you also be like him. Answer a fool
according to his folly, lest he be wise in his own eyes” (NKJV).
Tục ngữ
Ý: Bảy người khôn cũng không trả lời nổi một người dại hỏi (One fool may ask more than seven wise
men can answer).
Vì vậy câu
KT này trong Châm Ngôn dạy chúng ta tùy trường hợp coi có nên trả lời câu hỏi
của người dại hay không. Xem thêm S10.
F11. Forgive
us our trespasses: Xem L8.
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 6:12
“Xin tha tội chúng con, như chúng
con đã tha cho những kẻ phạm tội
cùng chúng con.” Câu này trong bài “The Lord’s
Prayer”.
Đây là một thách thức cho con người
trong nỗ lực tha thứ. Chúng ta có tha
thứ cho người khác thì Chúa mới tha thứ cho chúng ta.
F12. The Tree is known by its FRUIT: (NKJV)
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 12:33 “Trồng
cây lành thì được quả lành, trồng cây độc thì được quả độc. Nhờ xem quả mà biết
cây” (BTT).
Xem trái thì biết được cây,
Cây độc trái độc, cây ngay trái lành.
Nghe lời nói, việc làm thì biết được
lòng người.
Cây xanh thì
trái cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con. (CD).
F13. The FRUIT of the
Spirit: Trái Thánh Linh.
Nguồn
gốc: Galati (Galatians) 5:22-23 “the fruit of the Spirit is love, joy, peace,
longsuffering, kindness, goodness, faithfulness, meekness, self-control;
against such there is no law” ASV. (Trái của Thánh Linh là lòng yêu thương,
sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết
độ: không có luật pháp nào cấm các sự đó. BTT.) Bài thơ “Chín Trái Thánh Linh” của nhà thơ Thái
Trịnh:
Lòng
con xin nguyện Chúa an bình
Cho
con đầy dẫy trái Thánh Linh
Để
con chia sớt cho bằng hữu
Trái
ngọt như tàng mật nguyên trinh.
Con
giữ trong tâm trái hiền lành
Như
giòng suối mát giữa trời thanh
Không
hề vẩn đục khi mưa nắng
Chẳng
cuốn trôi theo bả lợi danh.
Nguyện
Chúa cho con trái vui mừng
Hồn
như hoa nở dưới trời xuân
Dẫu
đời từng trải bao mưa nắng
Vẫn
ngát hương xa, vẫn thắm hồng.
Ước
nguyện làm theo thánh ý Cha
Nhân
từ là trái đượm hương hoa
Thấy
người sung sướng, lòng vui thỏa
Thấy
kẻ khổ nghèo, dạ xót xa.
Dầu
cho lạc lõng cảnh tha hương
Nếp
sống rạng ngời trái tình thương
Yêu
mến, đỡ nâng người già yếu
Dắt
dìu, an ủi kẻ sầu vương.
Nguyện
lòng tươi tắn trái bình an
Khắc
ghi lời Chúa tận tâm can
Biển
đời giông tố, nào lay chuyển
Bóng
Chúa thuyền neo thật vững vàng.
Xin
trái trung tín rất ngọt bùi
Yêu
Ngài tha thiết dạ tươi vui
Linh
công dâng Chúa không sờn mỏi
Cửa
thánh nhà Cha dẫn bước người.
Trái
lành nhịn nhục đầy bác ái
Khoan
dung, tha thứ chẳng hờn ai
Tiết
độ giữ mình trong thánh ý
Mềm
mại dịu dàng tựa nắng mai.
F14. Be fruitful, and multiply:
Nguồn gốc: Sáng Thế Ký (Genesis) 1:28 “Hãy
sinh sôi nảy nở cho nhiều”. Đây là lời
Đức Chúa Trời căn dặn Adam và Eve.
F15. My God, my God, why have
You forsaken Me? (Eli, Eli, lama
sabachthani?)
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 27:46; Thi-Thiên (Psalm) 22:1.
Đây là một trong những lời cuối cùng Chúa Giê-xu thốt ra trước khi trút
hơi thở cuối cùng (Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi). Ngài nhắc lại câu Thi-Thiên 22:1 do David làm
khi ông cảm thấy Đức Chúa Trời không ở cùng.
TCTK dịch câu Thi-Thiên này:
Ôi Thiên Chúa, Ðấng Chí Tôn cao cả!
Nỡ sao Ngài lìa bỏ đứa con yêu?
Ngài đứng xa, chẳng nghe tiếng con kêu,
Không cứu giúp, con chống chèo đơn độc.
Nỡ sao Ngài lìa bỏ đứa con yêu?
Ngài đứng xa, chẳng nghe tiếng con kêu,
Không cứu giúp, con chống chèo đơn độc.
Chúa Giê-xu không phạm tội, nhưng
Ngài chịu chết là sự hy sinh để cứu chuộc thế nhân. Khi gánh thế tội, sự tương giao với ĐCT không
còn nữa, đó là một sự đau khổ tột cùng
hơn hẳn sự hành hình của thể xác trên thập tự.
Đức Chúa Trời cần lánh mặt để chương trình cứu chuộc của Chúa Giê-xu được
trọn vẹn.
G
G1. Wide is the gate,
and broad is the way, that leads to destruction:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 7:13-14
Cửa
hẹp và đường chật
Tuy
vắng vẻ, im lìm
Sẽ
dẫn đến sự sống
Chẳng
mấy ai muốn tìm.
Cửa
rộng và đường lớn
Khoảng
khoát và uy nghi
Sẽ
dẫn đến sự chết
Có
nhiều người muốn đi.
G2. It is better to GIVE than to receive:
hay: It is more blessed to give than to receive.
Nguồn gốc: Công Vụ (Acts) 20:35 “Ban cho có
phước hơn nhận lãnh” (BDHĐ).
Tục ngữ VN: “Ở xởi
lởi Trời gởi cho, ở co ro Trời lấy lại”. “Người ăn thì còn, con ăn thì hết”.
G3. GIVE us this day of our daily bread:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 6:11.
Xem bài “Cầu nguyện chung” (The
Lord’s Prayer) L8.
B
G4. Everyone to whom much is GIVEN, of him will
much be required:
Nguồn gốc: Luca (Luke) 12:48 “Ai được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều”
(BDHĐ). Gia đình Joseph Kennedy đã dùng
câu này làm châm ngôn nhắc nhở nhau phục vụ xã hội từ nhiều thế hệ. Gần đây nhà tỉ phú Bill Gates cũng nhắc đến câu
này khi dâng tài sản vào việc từ thiện.
G5. Strain out a GNAT but swallow a camel:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 23:24.
Coi
chừng người thủ lãnh
Tâm
linh bị mù lòa
Họ
lọc con ruồi nhỏ
Mà
nuốt con lạc đà.
Câu này
Chúa Giê-xu nói về tình trạng giả hình hay đạo đức giả của những người
Pharisees. Họ giữ giới luật rất chặt
chẽ, nhưng họ chuộng hình thức hơn nội
dung, trang trọng bên ngoài mà trống rỗng trong lòng. Họ lọc bỏ con ruồi trong ly nước uống (vì
không sạch) nhưng không biết là họ đã nuốt con lạc đà. Nghĩa bóng Chúa Giê-xu nhấn mạnh là họ khắt
khe, thiếu tình thương yêu, xét đoán người khác, ức hiếp người góa bụa, làm cớ
vấp phạm cho niềm tin người khác.
G6. Glory
to God in the highest, and on earth peace, good will toward men:
Nguồn gốc: Luca
(Luke) 2:14
Vinh
danh Thánh Chúa trên trời,
Bình
an dưới thế, cho người thiện tâm.
G7. GO the second mile: Đi dặm thứ hai. Xem thêm C3.
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 5:41.
Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-xu dạy môn đồ bài học chịu đựng, làm
hơn những gì người ta đòi hỏi:
Ai
vả má bên phải
Hãy
đưa má bên trái
Ai
muốn lột áo vắn
Hãy
cho luôn áo dài
Ai
muốn đi một dặm
Hãy
đi dặm thứ hai.
Mathiơ (Matthew) 5:39-41
G8. For GOD so loved the world:
Nguồn gốc: Giăng (John) 3:16
Vì
yêu thương thế gian,
Đức
Chúa Trời đã ban
Đã
hi sinh Con Một
Tội
muôn người, Chúa mang.
*
Hễ
ai tin Con ấy,
Như
được chép trong Lời
Không
hề bị hư mất
Mà
được sống đời đời.
Câu Giăng 3:16 đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng khác nhau.
G9. Love good,
hate evil:
Nguồn gốc: Hêbơrơ (Hebrews) 1:9 và Thi-Thiên (Psalm) 45:7 Chúa yêu điều thiện và ghét điều ác.
G10. Do not be overcome by evil, but overcome evil
with good:
Nguồn gốc: Rôma
(Romans) 12:21
Đừng
để điều ác thắng ta,
Dùng
thiện để trả gian tà thì hơn.
(CS)
Lấy ác trả đòn, ác thắng tôi;
Lấy thiện trả đòn, tôi thắng tôi.
Tường
Lưu
G11. All they work
together of good: Rom 8:28.
Xem A2.
G12. Good
tidings of great joy:
Nguồn gốc: Luca
(Luke) 2:10
Thiên
sứ liền trấn an,
Các
ngươi đừng sợ hãi
Ta
báo một tin lành,
Sẽ
là niềm vui lớn
Cho
tất cả thế nhân.
Tin lành đó là: “ấy là hôm nay tại
thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu thế, là Christ, là Chúa” (Luke 2:11
BTT).
G13. GOOD SAMARITAN: người
Samari nhân từ.
Nguồn gốc:
Luca (Luke) 10:33. Đoạn Kinh Thánh trong Luke 10 kể chuyện một
người bị cướp đánh gần chết nằm ở vệ đường.
Nhiều người đi ngang, làm lơ bước đi.
Một người Samari đi ngang qua, động lòng thương xót săn sóc cho nạn nhân. Về sau, cụm từ “A good Samaritan” chỉ người nào
mở lòng nhân từ cứu giúp người khác gặp nạn.
G14. The fathers have eaten sour grapes, and the children’s teeth are
set on edge. Xem S17.
Nguồn gốc: Giêrêmi (Jeremiah) 31:29-30.
G15. Gray
head: đầu bạc, chỉ sự khôn ngoan
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 20:29 “The glory of young men is their strength, and
the splendor of old men is their gray
head” (NKJV). “Người trai tráng nhờ sức mạnh mà vẻ vang, bậc
lão thành vinh quang vì tóc bạc” (BDY).
Sức lực thanh niên là vinh vọng
Tóc bạc là tôn trọng (của) lão thành.
Một câu KT khác với ý
tương tự thấy trong Châm Ngôn (Proverbs) 16:31
“The silver-haired head is a crown of glory, if it is found in the way of
righteousness.” “Tóc bạc là mão triều
thiên vinh hiển; Cho ai theo đường lương
thiện công bình.”
Đầu
tóc bạc ở đây chỉ sự khôn ngoan của người từng trải. Sau bao năm tháng tuổi đời chồng chất với bao
kinh nghiệm lên voi xuống chó, thiên ma
bách chiết 千磨百折
(ngàn lần mài, trăm lần gãy), người cao niên thường góp nhặt được nhiều kiến
thức quí báu, nhiều sự khôn ngoan vô giá về cách ứng xử trong đời sống. Một công ty chuyên về đầu tư tại Hoa Kỳ khi
tuyển người thuộc cấp lãnh đạo, thích tìm người có đầu tóc hoa râm vì họ nhận
thấy giới này khôn ngoan, cẩn thận và chăm chỉ trong công việc.
Tục ngữ VN: Khôn
không qua trẻ, khỏe không qua già.
H
H1. Do not let your left hand know what your right hand is doing:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:3b
Đừng
cho tay trái biết
Những
việc tay phải làm
Làm
lành trong kín nhiệm
Chúa
Trời sẽ thưởng ban.
H2. The Handwriting
is on the wall:
Nguồn
gốc: Daniel 5:5-28 ghi lại chuyện
vua Belohzzar đãi tiệc, dùng những khí vật của Chúa ra uống rượu, bàn tay hiện
ra viết chữ trên tường. “Những chữ đã vạch ra như sau nầy: Mê-nê, Mê-nê, Tê-ken, U-phác-sin.
(MENE, MENE, TEKEL, UPHARSIN). Những
chữ này có nghĩa là: Đức Chúa Trời đã
đếm nước vua và khiến nó đến cuối cùng. Vua đã bị cân trên cái cân, và thấy là kém
thiếu. Nước vua bị chia ra, ban cho người khác.
Câu này
muốn nói là tai họa hay sự hiểm nghèo sắp xảy ra.
H3. Heap coals of fire on his head: chất than lửa trên đầu.
Nguồn
gốc: Rôma (Romans) 12:20 và Châm Ngôn (Proverbs)
25:21-22.
Khi kẻ thù khát, hãy cho họ nước
Khi họ đói lòng, hãy cấp thức ăn
“Chất lửa lên đầu” giúp họ ăn năn
Lấy thiện trả ác, rồi con được phước.
Theo phong
tục Do Thái, khi trời tối người không có lửa thường đội rế trên đầu đi tới nhà
người khác để xin mồi lửa. Người cho sẽ
gắp than lửa để lên đầu người xin. Câu
này dạy làm ơn cho kẻ thù nghịch.
H4. Swift to hear:
mau nghe
Nguồn
gốc: Gia-Cơ (James)
1:19-20. Xem S19.
Mau
nghe, chậm nói ai ơi
Lại
thêm chậm giận, Chúa Trời mới vui.
Có sách giải
kinh cho rằng Thánh Gia-Cơ dạy chúng ta “mau nghe” là nghe với lỗ tai thứ ba (the third ear), nghe với
con tim, hay nghe với tinh thần “ý tại ngôn ngoại” 意在言外 để hiểu được nỗi khổ
tâm của người khác.
H5. The heavens
declare the glory of God:
Nguồn
gốc: Thi Thiên (Psalm) 19:1 Thi Thiên này viết về tạo vật bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
H6. Here
today, gone tomorrow:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:30 ý nói “nay còn, mai mất”. Xem thêm
D15.
Cuộc
đời hoa cỏ không dài
Hôm
nay tươi tắn, ngày mai vô lò
Còn
có áo đẹp Chúa cho
Con
người lọ phải sầu lo hình hài!
H7. Hole
in the pocket:
Nguồn
gốc: Aghê
(Haggai) 1:6 “Lỗ hổng trong túi.”
Chúng ta
thường nghe câu tiền bạc xoi lỗ trong túi của bạn (burn a hole in your pocket)
tức là khiến bạn phải tiêu, nhiều khi tiêu xài quá lố. Trong Haggai 1:6 có câu “bỏ tiền công trong
túi lủng” (put it in a bag with holes). Nghĩa
bóng nói về người không biết suy xét, chỉ biết đầu tư cho riêng mình, không
nghĩ tới nhà Chúa, thì sẽ không hưởng được công khó mình làm, như đựng tiền
trong túi lủng:
Gieo
nhiều mà gặt ít
Ăn
nhiều vẫn không no
Uống
mà không đã khát
Mặc
nhiều vẫn co ro
Làm
nhiều mà vẫn thiếu
Vì túi có lỗ rò,
….khá
to.
Cùng một ý
ấy, Thi Thiên 127:2 viết rằng ai ăn ở không đẹp ý Chúa sẽ làm lụng vất vả mà
rốt lại chỉ ăn bánh lao khổ (bread of sorrows) mà thôi:
Thức khuya, dậy sớm dãi dầu,
Ăn bánh lao khổ cơ cầu lắm khi.
Chúa ban người ở có nghì,
Ngủ thì yên giấc, ăn gì cũng ngon.
Tiên tri Giêrêmi
đã đưa một hình ảnh khác: chiếc hồ nứt
(broken cisterns) không thể chứa được nước:
Dân ta đã làm hai điều ác
Bỏ nguồn nước sống chính là Ta
Rồi hì hục đào hồ chứa nước
Thật phí công:
hồ đã nứt ra.
Giêrêmi
(Jeremiah) 2:13
H8. Honor
your father and your mother: Xem O1
Nguồn
gốc: Xuất-Hành (Exodus) 20:12,
Mathiơ (Matthew) 15:4 Êphêsô (Ephesians)
6:2.
Nhiều người
không biết luật của Chúa thường nghĩ sai rằng Cơ Đốc nhân là bất hiếu, bỏ cha
mẹ, bỏ ông bà. Những câu KT trên đã
chứng minh ngược lại.
Thánh kinh
dạy người làm con phải hiếu kính cha mẹ (cùng lời hứa được phước lộc thọ):
Chúa
Trời đã có điều răn:
Làm
con hiếu kính song thân trọn tình
Suốt
đời được hưởng phước lành,
Đất
đai, cơ nghiệp tiền trình không lo.
Sách Châm
Ngôn (30:17) lên án đứa con bất hiếu:
Ai nhìn nhạo báng cha, Hay khinh lời
mẹ nhắc,
Sẽ bị chim ưng tha, Và con quạ mổ
mắt.
H9. Hope
deferred makes the heart sick:
Nguồn gốc: Châm-Ngôn
(Proverbs) 13:12
(Mộng
đã thành làm tâm can phấn chấn)
Hi vọng dở dang rối bấn
ruột gan.
H10. House
divided cannot stand:
Nguồn
gốc: Mác (Mark) 3:24-25
Nước
mà chia rẽ sao yên
Nhà
mà chia rẽ sẽ nghiêng ngửa nhà!
Câu thường
nghe “United we stand, divided we fall”
có nguồn gốc từ câu KT này. Ông Abraham
Lincoln đã dùng câu này để kêu gọi sự đoàn kết 3 năm trước nội chiến của Hoa Kỳ
(1858).
I
Graven Image: hình tượng chạm.
Trong sách
Xuất-Hành (Exodus) tại chương 20 có ghi mười điều răn của Đức Chúa Trời (ĐCT)
cho dân Do Thái, dân này được xem như là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Điều
răn thứ nhất: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác.” Điều
răn thứ hai: “Ngươi chớ làm tượng
chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia,
hoặc nơi đất thấp này, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và
cũng đừng hầu việc chúng nó…” Giáo phái
Lutheran và Công giáo La Mã nhập hai điều răn kể trên làm một, xem như là điều
răn thứ nhất.
Về địa lý, xứ Do Thái nằm lọt vào giữa các dân tộc thờ
đa thần (polytheism), họ làm các loại hình tượng chim chóc, thú rừng, cá biển…
tinh tú như mặt trời để thờ lạy. Những
hình tượng này có thể bằng đất, gỗ, đá, kim loại… được các tay thợ khắc đẽo
khéo léo làm ra. Do Thái giáo và sau này
là Cơ Đốc giáo theo độc thần giáo (monotheism) chỉ thờ phượng Đức Chúa
Trời. Sử Ký của Do Thái ghi lại những vị
vua nào chỉ thờ phượng ĐCT thôi thì đươc thịnh vượng, còn vị vua nào bị ảnh
hưởng của các dân tộc xung quanh mà thờ các thần khác, hay thờ hình tượng đều
bị suy vi. Trong thời Tân ước, sự tham
mê vật chất như tiền bạc làm quên mất Chúa cũng bị xem như thờ hình tượng
(idolatry) như trong Matthew 6:24; Ephesians 5:5; Colosians 3:5…
Lòng
ham mê tiền bạc
Gây
nên mọi điều ác
Làm
ta bỏ niềm tin
Chước
lấy điều tan nát.
I Timôthê (Timothy) 6:10
J
Judge not (hoặc: Do not JUDGE). Xem
thêm C6.
Trong văn chương Anh, chúng ta
thường thấy hoặc nghe “Do not judge” hoặc theo dạng cổ điển “Judge not”. Nguồn gốc của “judge not” là từ 2 câu Kinh
Thánh:
a/ Giăng (John) 7:24 “Judge not according to the
appearance…” (Đừng cứ bề ngoài mà xét đoán), đoạn kế tiếp là: “nhưng phải xét
đoán theo lẽ công bình”. Chúng ta cũng thấy những câu
có ý nghĩa tương đương: Don’t judge the whole flock by a single
sheep. You can’t judge a book by its
binding. You can never tell a book by
its cover. Tục ngữ Việt Nam có câu:
“Đừng quơ đũa cả nắm.” Chữ Nho có câu: Họa hổ, họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri
diện, bất tri tâm 畫虎畫皮難畫骨 知人知面不知心 (Vẽ hùm không thể vẽ xương, Biết người, biết mặt
khôn tường lòng riêng.) Còn câu ca
dao: “Trông mặt mà bắt hình dong, Cơn lợn có béo, bộ lòng
mới ngon” nói về một lời dạy khác: cảm tưởng đầu tiên khi tiếp xúc. Chớ hiểu lầm câu này mà định giá người hay
vật bằng bề ngoài là hố!
b/
Mathiơ (Matthew) 7:1 “Judge not, that ye be not judged” (Đừng xét đoán
ai, để khỏi bị xét đoán) Lời dạy này của
Chúa Giê-xu nhấn mạnh phần tâm linh:
Không thấy tội lỗi của mình, mà lo rình rập, moi móc lỗi của người như
người không nhận racây đà (beam) trong mắt mình, lại đi tìm cái rác (mote,
speck) trong mắt kẻ khác (câu 7:3).
Trong
bài thơ LỘNG, thi sĩ Tường Lưu viết:
…Đừng đoán xét, nhưng hãy nên tha thứ
Lấy tình thương mà xây
dựng lẫn nhau
Vì tình thương khỏa lấp
mọi sầu đau
Và giải quyết tất cả
điều sai phạm.
K
Knowledge is power:
Nhiều người cho câu “kiến thức
là quyền lực” này có nguồn gốc từ câu Châm Ngôn
(Proverb) 24:5 “A wise man has
great power, and a man of knowledge increases strength”.
Người
khôn ngoan có nhiều quyền lực,
Kiến thức nhiều thì sức càng tăng.
L
L1. Your word is a LAMP to my
feet:
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 119:105.
Lời
Ngài: ngọn đèn chân tôi bước
Là
ánh sáng chiếu trước đường đi.
L2. A Leopard
does not change his spots:
Nguồn
gốc: Giêrêmi (Jeremiah) 13:23 “Người Ê-thi-ô-bi có thể đổi được da mình,
hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được thì các ngươi là kẻ đã làm dữ
quen rồi, sẽ làm lành được” (BTT).
Câu “Con
báo không thay đổi được đốm của nó” có nghĩa như “cái nết đánh chết cũng không
chừa”. Thói quen, tập quán lâu đời rất
khó đổi (Old habits die hard).
L3. I am
the light of the world:
Nguồn
gốc: Giăng (John) 8:12 ghi lại lời của Chúa Giê-xu:
Trò
chuyện cùng dân, Ngài tuyên bố:
Ta
là ánh sáng của trần gian
Ai
theo Ta không còn trong tối
Mà
sống trong sự sáng huy hoàng.
L4. Don’t hide your light under a bushel: Đừng giấu đèn dưới thùng
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 5:15 ghi lại lời dạy của Chúa Giê-xu:
Không
ai thắp cái đèn
Rồi
giấu dưới cái thùng
Nhưng
đặt lên trên giá
Để
nó tỏa sáng trưng.
L5. Consider the lilies of the field: Hãy xem hoa huệ ngoài đồng.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:28
Lời Chúa dạy tránh sự lo lắng về đời sống vật chất, ngay như hoa và chim
Chúa còn chăm sóc huống chi con người:
Sao
các con lo lắng cho quần áo,
Ra
ngoài đồng nhìn hoa huệ đi!
Chúng
không hề lo làm gì ráo,
Không
bận lòng may mặc thứ chi.
L6. The Lord bless you and keep you: Hay nói theo thể văn xưa: “Lord
bless thee, and keep thee”.
Nguồn
gốc: Dân Số ký (Numbers) 6:24
“Chúa ban phước và gìn giữ bạn”.
Câu này thường nghe trong các buổi lễ thờ phượng của Tin Lành. Người ta nói câu này khi đưa tiển người đi
xa. Nếu dịch thoát theo cách nói của người
Việt, chúng ta có thể nói: “Chúa phò hộ
bạn”.
L7. The LORD gives and the Lord
takes away
Nguồn
gốc: Gióp (Job) 1:21. Ông
Job gặp đại nạn, không oán trách Chúa, mà chấp nhận tình trạng Chúa có thể cho
và Chúa có thể lấy lại.
Mình
lọt lòng mẹ trần truồng
Khi
về lòng đất một tuồng đó thôi
Chúa
cho rồi Chúa thu hồi
Lòng tôi ca ngợi không thôi danh Ngài.
Ca dao Việt
Nam
có câu:
Của
trời, trời lại lấy đi,
Trơ
trơ hai mắt làm chi được trời.
L8. The LORD’s Prayer
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 6:9-13. Đây là bài cầu nguyện mẫu mà Chúa Giê-xu dạy
môn đồ cầu nguyện. Các Hội Thánh Tin
Lành thường gọi là “Bài Cầu Nguyện Chung”.
Xin phỏng dịch bằng thơ lục bát:
Lạy
Cha yêu quý trên trời,
Danh
Cha tôn thánh muôn đời về sau.
Nước
Cha xin được đến mau,
Ý
Cha thành tựu như nhau đất trời.
Hằng
ngày xin có đủ xơi,
Xin
Cha tha tội, thảnh thơi trong lòng
Như
con tha kẻ nghịch cùng
Chớ
để cám dỗ gieo trồng trong con.
Cứu
chúng con khỏi ác ôn,
Vì
bao vinh hiển, nước, quyền thuộc Cha.
L9. God is love:
Nguồn gốc: 1 Giăng (John) 4:8.
Không
yêu, không biết Chúa Trời
Vì
Ngài là Đấng muôn đời yêu thương.
L10. Love
Chapter: Chương Tình Yêu
Nguồn gốc: 1 Côrinhtô (Corinthians) 13.
Chương này tả tỉ mỉ đặc tính của tình yêu
L11. Love
the Lord your God with all your heart, soul, and mind”
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 22:37.
Khi có người hỏi Chúa mệnh lệnh nào
là quan trọng nhất trong luật pháp. Chúa
Giê-xu đáp: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức
Chúa Trời” (BTT). Chúa Giê-xu trích dẫn
từ sách Phục Truyền Luật Lệ ký (Deuteronomy) 6:5. Trong Matthew 22:39 Chúa Giê-xu nói tiếp điều răn lớn thứ hai là yêu thương
người khác như mình. Xem thêm N3.
M
M1. No man can serve two MASTERS:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 6:24 “You cannot serve God and mammon” Lời Chúa Giê-xu phán rằng “Ngươi không thể
phục vụ Chúa và mammon” nghĩa là phục vụ
hai chủ cùng một lúc. Mammon có nguồn
gốc từ Aramaic có thể dịch là “thần tài”.
Không ai có thể làm tôi hai chủ.
Chắc
rồi sẽ thiên trọng một bên thôi
Nên
con người không thể cùng một lúc
Phục
vụ ma-môn lẫn Đức Chúa Trời.
Thi sĩ Tường Lưu có viết bài thơ
“Ma-Môn” khá lý thú, xin trích ra đây đoạn cuối:
Nếu giàu có, coi tiền như Ông Chủ
Thì đúng là tôi mọi cho Ma-môn
Sức đô-la hút mất cả tâm hồn
Thờ tiền bạc làm sao thờ Chúa được!
M2. Blessed are the meek: for they shall
inherit the earth:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 5:5.
Phước cho người nhu mì
nhân nhượng;
Vì rồi đây
họ thừa hưởng đất đai.
Xin chép phần giải chữ Nhu Mì trong sách Thánh Kinh Tự Điển Cadman (một
phần trong Nhu Liệu Thánh Kinh) “Nguyên
văn trong Cựu Ước Hê-bơ-rơ là 'anawah, từ nguyên gốc 'anaw có nghĩa chịu đau đớn,
bị bắt bớ, bị bắt ép, và chỉ về đức tính tốt đẹp nảy sinh từ những từng trải
đó.
Cựu
Ước chép: "Môi-se là người rất khiêm nhường (nguyên văn: nhu mì) hơn mọi
người trên thế gian", dầu ông được những sự khải thị của Ngài và bị dân sự
phản đối (Dân 12:3; so IICôr 12:1-6)…. Chúa hứa ban cho người nhu mì những ơn phước đặc
biệt (Thi-thiên 22:26;
25:9; 37:11; 147:6; 149:4; Ê-sai 11:4; 29:19)…
Tân Ước.-- Nhu mì (prautés) trong
Tân Ước chẳng những chỉ là một đức hạnh tự nhiên, song cũng là một ơn ban cho
tín đồ Đấng Christ, là một trong những trái của Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22 dịch: mềm mại). Ý nghĩa nhu mì
như nhà triết học Aristote đã nói, nhưng nhờ đạo Đấng Christ được thêm ý rất
cao thượng: dầu đứng trước sự khinh bỉ
thì vẫn cứ khiêm nhường. Nhu mì là tinh thần của chính Cứu Chúa (Ma-thi-ơ 10:29 so IICôr 10:1). Trước tiên phải
có sự khiêm nhượng, sau bởi đó mới được sự nhu mì, và kết quả sự nhu mì là sự
tiết độ. Tín đồ phải nhu mì và phải tỏ ra đức tính này đối với nhau (Ê-phê-sô
4:2; Cô-lô-se 3:12; ITi-mô-thê 6:11; Tít 3:2); nhu mì phải là đặc điểm của các
giáo sư Đấng Christ và người nào cầm quyền (IITi-mô-thê 2:25); người đời phải
nhận lấy lời cứu rỗi cách nhu mì (Gia-cơ 1:21); tín đồ "Hãy lấy cách ăn ở
tốt... bởi nhu mì mà ra" (Gia-cơ 3:13), và phải hiền hòa (nhu mì), sẵn
sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy mình (IPhi-e-rơ 3:15).
M3. Member: hội
viên.
Chữ Member thường được dịch là “hội
viên” trong tiếng Việt, nhưng hội viên không diễn tả đúng và hết ý nghĩa của
chữ member. Nhiều người cho rằng chữ
member bắt nguồn từ Kinh Thánh. “Member”
là chi thể của thân thể. Trong Cơ Đốc
giáo, Hội Thánh là cơ thể hay thân thể Đấng Christ, mỗi Cơ-đốc viên là chi thể
(Ephesians 5:30). Mỗi chi thể có một vai trò khác nhau trong
cơ thể, nên mỗi thành viên trong Hội Thánh cần có sự giao hảo với nhau, tương
trợ nhau trong công việc nhà Chúa. Đó là
tinh thần hiệp một của Thánh Linh (unity of Spirit) mà Thánh Phao-lô trong thư
Êphêsô, chương 4 ghi lại. Về sau, member
được dùng chỉ người trong cùng một nhóm, một câu lạc bộ, một hội đoàn…
M4.
Love of money is the root
of all evil:
Nguồn gốc: I Timôthê (Timothy) 6:10
Lòng
ham mê tiền bạc
Gây
nên mọi điều ác
Làm
ta bỏ niềm tin
Chước
lấy điều tan nát.
Nhiều người khi trích câu này,
thường thiếu chữ “Love of” nên hóa ra họ lên án tiền bạc, chứ ý của Phao-lô
muốn nói lòng tham, lòng ham mê mới là nguồn gốc mọi điều ác.
N
N1. Don’t take the NAME of the
Lord in vain:
Nguồn
gốc: Xuất Hành (Exodus) 20:7.
Đây
là một trong 10 điều răn của Chúa: “Đừng lấy danh Chúa làm chơi”. Không dùng danh Chúa để thề thốt, để làm chứng
dối, và ngay cả dùng khơi khơi như nhiều người hay kêu “Chúa ơi!” “Trời ơi!” (Phụ chú: Tên của Đức Chúa Trời là
Giê-hô-va hay Yave ‘YHWH’).
N2. A good NAME is rather to be chosen than great
riches:
Nguồn gốc:
Châm Ngôn (Proverbs) 22:1 “Danh tiếng tốt còn hơn tiền của nhiều; Và ơn
nghĩa quí hơn bạc và vàng.”
Tục
ngữ VN: Tốt danh hơn lành áo.
N3. Love your neighbor
as yourself: Xem thêm L11.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 22:39 “Hãy yêu người lân cận như mình.”
Đây là một
trong hai điều răn lớn “Kính Chúa, yêu người” mà Chúa Giê-xu đã nhắc cho các
thầy dạy luật khi họ hỏi thử Ngài: “Teacher, which is the great command-ment in
the law?”
Thứ
nhất hết linh hồn, hết ý
Cùng
hết lòng yêu quí Chúa Trời
Thứ
nhì cư xử trên đời,
Thuơng
yêu, giúp đỡ những nguời cận lân.
Thương
người như thể thương thân.*
*Trong
tác phẩm Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi dạy con “thương người như thể thương thân”:
Lấy
điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương
người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
Thương
người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng
tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.
N4. There is nothing
new under the sun:
Nguồn gốc: Sách Truyền-Đạo
(Ecclesiastes) 1:9 “Không có gì mới lạ dưới bóng mặt trời”.
Câu nói khiến cho chúng
ta nhớ lại hai câu trong bài thơ Chữ Nhàn của Nguyễn Công Trứ:
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
我 今 日 坐 在 之地 古 之 人 曾 先 我 坐 之
我 今 日 坐 在 之地 古 之 人 曾 先 我 坐 之
Có
nghĩa là “Chỗ ta đang ngồi đây, người xưa đã từng ngồi trước ta rồi!” Hai câu này lấy từ Lời Tựa của Kim Thánh Thán
cho truyện Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ đời Nguyên.
O
O1. Children, obey
your parents: Xem H8.
Nguồn
gốc: Eph. 6:1; Col. 3:20 “Các con hãy vâng lời cha mẹ”. Qua lời trong
thư Ephesians, Phao-lô nhắc lại lời răn “hiếu kính cha mẹ” trong Xuất
Hành (Exodus) 20:12 mà Đức
Chúa Trời truyền cho loài người.
O2. Do not muzzle an OX while it is treading out
the grain.
Nguồn gốc:
1 Côrinhtô (Corinthians) 9:9; Phục-Truyền
(Deuteronomy) 25:4 “Chớ khớp miệng con bò trong khi nó đạp lúa.” I Tim 5:18.
Xem thêm W14.
Tục
ngữ VN: “Trâu đạp lúa phải cho ăn cỏ.”
P
P1. Bond of peace:
Nguồn gốc: Êphêsô (Ephesians) 4:2-3 “Phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều,
phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chiều nhau, dùng dây hòa bình mà giữ gìn
sự hiệp một của Thánh Linh” BTT.
Khiêm nhường, nhịn
nhục, thương yêu
Dùng dây hòa ái mà chiều lẫn nhau
Thánh Linh hiệp một bền lâu.
Châu
Sa
Dây hòa bình thật là dây quí hiếm
Dùng dây này… hiệu quả tốt vô song
Dây được se bằng các sợi yêu thương
Hóa giải hết mọi “hơn thua”, nếu có!
Tường Lưu (Thách Đố Tâm
Linh)
P2. Blessed are the peacemakers, for they shall be called
sons of God:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 5:9
Phước cho ai có lòng son,
Tánh hay hòa giải là con Chúa Trời.
P3. Cast not pearls before swine
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 7:6
Đừng đem đồ thánh ban cho chó
Chớ lấy ngọc ngà phó lũ heo.
P4. Physicians, heal thyself:
Nguồn gốc: Luca (Luke) 4:23-24
“Thầy lang ơi, tự chữa lành,
Hãy làm phép lạ tại thành mình đi.”
*
- “Hãy coi thân phận tiên tri,
Vẻ vang khắp chốn trừ phi quê mình”.
P5. Whoever digs a PIT will
fall into it, And he who rolls a stone will have it roll back on him:
Nguồn gốc: Châm
Ngôn (Proverbs) 26:27
Đào hố, lọt hố như chơi
Lăn hòn đá lớn, đá rơi trúng mình.
Tục ngữ VN có câu: Gậy
ông đập lưng ông. Tục ngữ người Mễ-Tây-Cơ có câu: “Ai phun nhổ
lên trời, sẽ rơi xuống mặt mình” (El que
al cielo escupe, a la cara le cae).
Trong sách Êxơtê (Esther), có nhân vật Haman làm giàn treo cổ, định giết
người khác mà rốt cuộc ông ta bị treo cổ trên chiếc giàn ấy. Trong Thi-Thiên câu 141:10 “kẻ ác bị sa vào
chính lưới nó gài”.
Người
Trung Hoa có thành ngữ “Mời anh vào chum” ( 請 君 入 甕 [瓮]: Thỉnh quân nhập úng) do tích từ thời Võ Tắc Thiên làm vua bên Tàu. Lai
Tuấn Thần vâng lệnh Võ Tắc Thiên đến hỏi tội Chu
Hùng mà Hùng không biết. Tuấn Thần vờ
hỏi: “Khi điều tra mà tội nhân không nhận tội thì làm sao?” Chu
Hùng đáp: “Lấy cái chum to, bỏ hắn ta vào, rồi đốt lửa xung quanh thì hắn sẽ
nhận tội ngay!” Tuấn Thần sai đem cái
chum to ra, và nói với Hùng: “Mời anh vào chum cho.” Hùng sợ quá, bèn nhận hết bất cứ tội danh
nào.
P6. Blessed are the poor, for yours is the kingdom of God:
Nguồn gốc: Luca (Luke) 6:20
Phước cho ai đang nghèo khổ
Vì nước Trời có chỗ cho người.
P7. They do not practice
what they preach: xem D8
P8. Pride goes before destruction:
Nguồn gốc: Châm-Ngôn
(Proverbs) 16:18
Câu này thường được nhắc tới để
khuyên răn, cảnh giác người có lòng kiêu ngạo.
Sự kiêu ngạo đi trước
Sự bại hoại theo sau
Ai vênh váo trèo cao
Ắt có ngày té nặng.
P9. PSALM 23:
Đây là bài Thi Thiên được nhiều
người ưa chuộng.
Châu Sa có bản dịch
sau đây:
Đức
Chúa Trời, Đấng chăn từ ái,
Chẳng
để tôi phải thiếu thốn chi.
Dẫn
tôi đến mé nước bình tịnh
Cho
tôi vui hưởng cỏ xanh rì.
*
Bồi
bổ hồn tôi tươi mát lại,
Khi
tâm mòn mỏi, trí suy vi.
Dù
tôi đi trong trũng bóng chết
Có
Ngài bên, tôi chẳng sợ gì.
*
Cây
trượng, cây gậy Ngài an ủi
Tôi
yên lòng trong bước hiểm nguy.
Trước
kẻ nghịch tôi, Ngài biệt đãi
Xức
dầu tôi: hạnh phúc ai bì?
*
Ôi!
Phước hạnh và sự thương xót
Đuổi
theo tôi từng bước không rời
Tôi
sẽ ở trong nhà của Chúa
Ở lâu dài, cho đến muôn đời!
R
R1. Rejoice in the
Lord:
Nguồn
gốc: Thi-Thiên
(Psalm) 33:1; 32:11
Người
công chính! Hãy vui mừng trong Chúa,
Kẻ
thực tâm, hãy ca múa trong Ngài.
Thi-Thiên
(Psalm) 32:11
Những câu Thánh Kinh có ý nghĩa vui
mừng tương tự:
Vui
mừng trong Chúa luôn luôn
Tôi
xin nhắc lại: giữ nguồn mừng vui!
Philíp (Philippians) 4:4
Hãy vui mừng mãi mãi
Và cầu nguyện không thôi
Việc gì cũng cảm tạ
Là ý của Chúa Trời.
I
Têsalônica (Thessalonians) 5:16-18
R2. Do this in remembraNce
of me:
Nguồn
gốc: Luca (Luke) 22:19
Buổi Tiệc
Ly Cuối Cùng (The Last Supper) Chúa Giê-xu dạy môn đồ giữ lễ tiệc này (còn gọi
là Tiệc Thánh: Communion Service) để
tưởng nhớ đến sự hi sinh của Chúa.
R3. I am the resurrection
and the life:
Nguồn gốc: Giăng (John) 11:25.
Đây là câu Chúa Giê-Xu nói với Mathê
khi anh của cô là Laxarơ đã chết: “Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin ta thì sẽ sống mặc dù đã chết. Còn ai sống và tin ta sẽ không chết nữa. Mathê, con tin như vậy không?” Trong câu Giăng 11:43-44 Ngài kêu lớn:
“Laxarơ ơi, hãy đi ra!” Người chết đi
ra, tay chân còn quấn vải liệm, có miếng vải phủ qua mặt. Chúa Giê-xu bảo họ, “Hãy mở vải liệm để anh
ấy đi.” (theo Niềm Hi Vọng - Bản Phổ Thông).
R4. Spare the ROD and spoil the child: xem C4
S
S1. Sabbath
day
Là ngày thứ bảy nghỉ ngơi sau 6 ngày làm việc. Mỗi giáo phái có thể định ra ngày nào là ngày
Sabbath của mình để nghỉ ngơi và thờ phượng.
Xuất-Hành (Exodus) 20: 8 ghi
“Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.”
Trong thời của Chúa Giê-xu, các thầy dạy luật bày thêm
nhiều luật lệ vào những luật sẵn có.
Chúa Giê-xu phán: “Vì loài người
mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người.” Mark 2:27. Từ chữ
Sabbath, trong tiếng Anh có tĩnh từ Sabbatical nói về thời gian nghỉ định kỳ
tại trường đại học và công sở, xí nghiệp.
S2. SALT of the Earth:
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 5:13
Con
là muối của đất
Song
nếu mất mặn đi
Sẽ
bị quăng và đạp
Vì
chẳng làm được chi.
Ngày
nay, người ta dùng thành ngữ “muối của đất” để chỉ một người tốt, nhân từ,
siêng năng trong cộng đồng.
S3. SCAPEGOAT:
Dê tế thần.
Nguồn
gốc: Lê-vi ký (Leviticus) 16. Con dê gánh tội lỗi của dân sự. Nghĩa bóng chỉ về Chúa Giê-xu gánh chịu hết tội
lỗi của nhân loại.
Tục ngữ Việt
Nam
có câu: “Quít làm, cam chịu”. Ca dao có câu:
Con
mèo làm bể nồi rang,
Con
chó chạy lại phải mang lấy đòn.
S4. To every thing there is a SEASON: Xem
TIME T5.
Nguồn
gốc: Truyền-Đạo (Ecclesiastes) 3:1 “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc
dưới trời có kỳ định” (BTT).
Việc gì
cũng có thời của nó. Đúng thời thì thuận
lợi. Không đúng thời thì sẽ gặp cản trở,
bế tắc.
S5. SEEK, and ye shall find: coi thêm ASK, A7
S6. Separating SHEEP from the goats: Phân
ra chiên với dê.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 25:32-33.
Trong
đời, chúng ta không biết ai tốt, ai xấu, không phân biệt được chiên và dê, công
và gà. Thời nay, vàng thau dễ lẫn
lộn. Nhưng tới ngày phán xét, Chúa sẽ
phân ra chiên và dê, tốt và xấu, ai yêu
kính Chúa yêu người thực lòng, khác với người chỉ yêu Chúa bằng môi miếng:
Mọi
dân tộc tụ họp trước mặt Ngài
Ngài
bèn phân nhóm tách họ làm hai
Chiên
qua bên phải, và dê bên trái
Bên
thì nhận thưởng, bên lãnh họa tai.
S7. All we like SHEEP have gone astray: Chúng
ta đều như chiên đi lạc.
Nguồn
gốc: Êsai (Isaiah)
53:6.
Câu này trong sách Êsai nói rằng
loài người lầm lạc, làm theo ý riêng, đầy tội lỗi. Đức Chúa Trời đem tất cả tội lỗi đó đặt lên
Chúa Giê-xu lúc Ngài hy sinh thân và huyết để chuộc tội cho loài người.
Mình
như chiên lạc lối
Đường ai thích cứ đi
Chúa Trời đem hết tội
Chất trên Chúa Giê-xu.
S8. Wolf in SHEEP’ s
clothes: Sói đội lốt chiên.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 7:15
Kẻ
dữ đội lốt người lành. Câu nói thông
thường: “chiếc áo không làm nên thầy tu”, “khẩu phật tâm xà”…
Coi
chừng tiên tri giả
Đã
đội lốt da chiên
Họ
chính là muông sói,
Sẽ
cắn xé, đảo điên.
S9. Lord is my shepherd: xem p9.
S10. Silence
of the lamb: Sự im lặng của chiên con.
Nguồn gốc: Êsai (Isaiah) 53:7 “He
was oppressed and afflicted, yet he did not open his mouth; he was led like a
lamb to the slaughter, and as a sheep before her shearers is silent, so he did not
open his mouth” (NIV). “Người bị
hiếp đáp, nhưng khi chịu sự khốn khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt
đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở
miệng”(BTT).
Câu KT trong Cựu Ước này tiên tri lúc
Chúa Giê-xu bị đưa tòa công luận. Người
ta cật vấn, Ngài không trả lời, Ngài chỉ nói:
“Nếu ta nói thì các ngươi không tin”
(Luke 22:67).
Nhóm từ “Silence of the lamb” thường
dùng chỉ nạn nhân yếu đuối, thấp cổ bé miệng, câm nín chịu đựng hàm oan vì có nói,
có kêu cũng vô ích vì bản án đã lập sẵn rồi.
Sự im lặng là một phẩm cách được đánh giá cao. Một câu nói của người Châu Mỹ La-Tinh: “oír,
ver y callar es la conducta del
sabio” : lắng nghe, nhìn và im lặng là cách cư xử của nhà hiền triết (To
listen, look and remain silent is the conduct of a sage).
Người Pháp có câu: “Il faut deux ans pour apprendre à parler et
toute une vie pour apprendre à se taire”
(Cần 2 năm để người ta tập nói và mất cả đời để tập im lặng) Xem thêm F10.
S11. SIN no more:
đừng phạm tội nữa.
Nguồn gốc:
1/ Giăng (John) 5:14
Sau khi Chúa Giê-xu chữa lành cho người
bị bại liệt 38 năm, Chúa phán ông ta rằng “Kìa, ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e có sự gì càng xấu
xa xảy đến cho ngươi chăng” (BTT).
2/ Giăng (John) 8:11
Chúa Giê-xu sau khi đã tha thứ người đàn bà tà dâm, bèn phán cùng bà rằng: “Hãy
đi, đừng phạm tội nữa” (BTT).
S12. All have SINNED, and come short of the glory
of God:
Nguồn gốc: Rôma
(Romans) 3:23 “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh hiển
của Đức Chúa Trời.” (BDHĐ).
Mọi người phạm tội với Trời,
Nên bao vinh hiển xa rời chúng ta.
Cần xem ý nghĩa của “phạm tội” trong câu này. Tiếng Anh phân biệt Sin (tội lỗi với Chúa) và
Crime (tội phạm với pháp luật) rất rõ ràng, nhưng trong tiếng Việt chữ “phạm
tội” có thể làm hiểu lầm. Có thể chúng
ta không phạm tội với pháp luật, nhưng theo Kinh Thánh mỗi người đều phạm tội
về tâm linh. Ý nghĩ xấu xa là phạm
tội, nghi ngờ sự dữ cho người khác là
phạm tội… Tội lỗi sẽ làm màn chắn không cho chúng ta nhận thấy được sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời cùng nhận ơn phước từ Ngài. Trong chương 3 sách Roma chỉ cho chúng ta
biết đức tin của chúng ta vào Chúa sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng hư hoại này
và chúng ta được kể là công bình trước mắt Đức Chúa Trời.
S13. Charity covers a multitude of SINS (Love will
cover a multitude of SINS):
Nguồn gốc: I Phiêrơ (Peter) 4:8 “Nhất
là trong vòng anh em phải có lòng yêu thương sốt
sắng; vì sự yêu thương che đậy vô số tội
lỗi” (BTT). Chúng ta cũng thấy ý này
trong Proverbs 10:12 và Gia-Cơ
(James) 5:20.
Câu này có thể bị hiểu lầm là vì yêu
mù quáng mà chúng ta bao che để cho người khác tiếp tục phạm tội. Không phải nghĩa này. Câu này nhắc đến một tình yêu thương chân thành,
sốt sắng, dung thứ, sẵn sàng “xính xái” bỏ qua những lỗi lầm của người lân cận
ngỏ hầu người đó được cứu rỗi. Người không
có lòng yêu thương có thể “bắt tình, bắt tội, bắt lỗi” hoặc bêu rếu, loan truyền
cái xấu của người khác làm họ phải tủi hổ rồi xa lánh mọi người. Trong
Kinh Thánh, gương của một người có tình thương chân thành là ông Joseph, khi ông
hay tin vợ sắp cưới của mình là Mary có thai mà bào thai không phải mình là tác
giả (lúc đó, ông chưa biết là đứa trẻ này chính là Con Đức Chúa Trời). Ông không muốn cho Mary bị mang xấu, bèn toan
để nhẹm (Matthew 1:19), nên
Joseph được xem là người có nghĩa.
Ca dao VN:
Yêu nhau đắp điếm mọi bề
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Trong sách Minh Tâm Bảo Giám, chương
Chính Kỷ có câu dạy: “Kiến nhân thiện sự tức tu ký chi; Kiến nhân
ác sự tức tu yểm chi” 見人善事即須記之 見人惡事即須 掩之 (Thấy chỗ thiện
lành của người thì ghi nhớ; thấy chỗ ác xấu của người thì khỏa lấp đi). Một câu khác
“Văn nhân quá thất như văn phụ mẫu
chi danh. Nhĩ khả đắc văn, khẩu bất khả
đắc ngôn” 聞人過失如聞父母之名. 耳可得聞口不可得言 (Nghe lỗi người như nghe tên cha mẹ. Tai có nghe mà miệng không dám nói).
S14. Escape by the SKIN of my teeth: thoát chết
trong đường tơ kẽ tóc
Nguồn gốc: Gióp
(Job) 19:20,
Có nghĩa như “thập tử nhất sanh” “chỉ mành treo chuông”.
S15. The SLEEP of a labored man is sweet: Người
lao động ngủ ngon.
Nguồn gốc: Truyền Đạo (Ecclesiastes) 5:12
Giấc ngủ người lao động
Dầu ăn thiếu cũng ngon,
Còn người giàu thừa mứa
Cứ trằn trọc mỏi mòn.
Hay:
Người lao động ngủ ngon,
Dù ăn thiếu hay đủ
Còn những nhà đại phú
Cứ trằn trọc mỏi mòn.
S16. This is my beloved SON, in whom I am well
pleased:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 3:17; Matthew 17:5 “Này là con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đường.”
Câu này thấy 2 lần trong Kinh Thánh,
một lần sau khi Chúa Giê-Su chịu báp-têm, và một lần khi Chúa Giê-Su và các môn
đồ lên núi, Chúa Giê-Su đã hóa hình (transfigured).
S17. The fathers have eaten SOUR grapes, and the
children's teeth are set on edge. Xem G14.
Nguồn gốc: Giêrêmi (Jeremiah) 31:29-30.
Rồi trong những ngày đó,
Họ không còn nói rằng,
“Cha ăn trái nho chua,
mà con phải ê răng”
Nhưng nhận quả việc mình làm,
Ăn chua cho cố hai hàm răng ê.
Tục ngữ VN: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
S18. As you SOW, so you (shall) reap: Gieo gì, gặt nấy.
Nguồn gốc: Galati (Galatians) 6:7.
Đừng
tự dối, đừng ngạo Trời,
Gieo
gì gặt nấy là lời nên ghi.
Trong Hosea
8:7 “They have sown the wind, and
they shall reap the whirlwind.” “Gieo
gió, gặt bão.”
S19. Slow to SPEAK: chậm nói.
Nguồn gốc: James 1:19 Xem thêm H4
Mau
nghe, chậm nói ai ơi
Lại
thêm chậm giận, Chúa Trời mới vui.
Gia-Cơ (James) 1:19-20
Câu này khuyên chúng ta nên
suy nghĩ kỹ trước khi nói để khỏi hối hận về sau. Chậm nói, ít nói tốt hơn nói nhanh và nói nhiều. Châm ngôn Pháp có câu: “If faut tourner votre
langue dans la bouche sept fois avant de parler” (Phải uốn lưỡi trong miệng bảy lần trước khi
nói).
Ca dao Việt Nam:
Chim khôn chưa bắt đã bay,
Người khôn ít nói, ít hay trả lời. (CD).
S20. SPEAK evil of no man: Chớ nói xấu ai.
Nguồn gốc: Tít (Titus) 3:2 “To speak evil of no man..” (ASV). “Chớ nói xấu ai..” (BTT). Tánh nói xấu (speak evil) và nói hành (speak
against someone) bị chê trách nhiều lần trong Kinh Thánh. Thánh Gia-Cơ (James) cảnh giác chúng ta về những
tội lỗi này của lưỡi. Sách Thi-Thiên
(Psalm) 34:13 chép “Hãy giữ lưỡi mình khỏi điều ác” (Keep your tongue from evil). Người
xưa xem những kẻ hay nói xấu, nói hành người khác như ngậm máu phun người. Kết quả là dơ miệng mình trước. Văn Công 文公 trong chương Chính Kỷ,
sách MTBG, có câu: Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu (含血噴人先汙自口). Xem thêm T6.
S21. Let your speech
be always with grace, seasoned with salt:
Nguồn
gốc: Côlôse (Colossians) 4:6 “Lời nói của anh chị em phải luôn luôn có ân
hậu và mặn mà,..” (BDHĐ). “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và
nêm thêm muối, ..” (BTT).
Lời nói cần ân
hậu
Thêm
chút muối thiện lành.
Lời nói
có nêm thêm muối là lời nói thú vị, có sự khôn ngoan tế nhị, không nặng lời
cũng không nhạt nhẽo.
Ca dao:
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
S22. The spirit
is willing but the flesh is weak:
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 26:41
“Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu
đuối” (BTT). Mác (Mark) 14:38 cũng diễn tả ý này.
Tâm thần
thì muốn lắm nhưng thể xác thì yếu đuối.
(Lực bất tòng tâm 力不從心).
Hãy
cầu nguyện thức canh,
Để
khỏi bị dỗ dành
Thể
xác con yếu đuối
Dù
tâm muốn làm lành.
S23. Leading
Star:
Có nguồn gốc từ Matthew đoạn 2 tả về
ngôi sao đặc biệt dẫn đường mấy nhà thông thái (wise men = magi) tìm đến Chúa
Cứu Thế Giê-su. Về sau người ta dùng
“leading star” chỉ người nào ở vị thế lãnh đạo sáng chói.
Xin trích bài thơ Ánh Sao của Bạch Loan:
Ánh sao đó đưa những nhà bác học
Đến tôn thờ chiêm ngưỡng Chúa giáng trần
Là ánh sao làm bối rối Quân Thần
Thời Herod lòng bất tin, gian ác.
Nhìn nhân thế như đàn chiên tan tác
Ngài giáng trần để chuộc tội chúng con
Người xưa dâng vàng, mộc dược, nhũ hương
Con dâng Chúa mỗi niềm tin chân chất.
Ánh sao xưa hiện ra rồi biến mất
Ân tình Ngài còn mãi đến ngàn sau
Ôi, thế nhân tội lỗi đã dìm sâu
Nên phủ nhận Đấng con trời giáng thế!
Ánh sao đó chiếu từ ngôi Thượng đế
Soi linh trình đưa lối mỗi chúng ta
Đem phúc âm rao giảng khắp gần xa
Đem tình Chúa sẻ chia cho nhân thế…
S24. Stolen
waters are sweet: Nước uống trộm thì
ngọt.
Nguồn gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 9:17-18
Nước
uống trộm thật ngọt
Bánh
ăn vụng quá ngon
Biết
đâu một miếng cỏn con,
Vừa
qua khỏi cổ linh hồn mất đi.
Thường
“Trái cấm là trái kiếm” vì dễ gây sự tò mò, như trong Sáng Thế Ký (Genesis) 3:6
“Người nữ thấy trái (cấm) của cây đó
bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho
chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa.”
S25. Cast the first STONE: Ném hòn đá đầu tiên.
Nguồn
gốc: Giăng (John) 8:7.
Trong đoạn này ở sách Phúc Âm Giăng,
các thầy thông giáo và người Pharisees mang một người đàn bà phạm tội tà dâm
đến cho Chúa Giê-Su và nhờ Ngài xử. Ngài
lấy tay viết trên đất. Vì họ
cứ hỏi mãi, nên Ngài đứng lên bảo: "Người nào trong các người chưa từng
phạm tội, hãy ném đá người nầy trước
đi! Rồi Ngài lại cúi xuống viết lên mặt
đất." (BDM). Sau đó, từng người
một, họ bỏ đá xuống và bước đi. Câu nói
của Chúa Giê-xu đánh động vào lòng những người này để họ nhớ lại bản chất tội lỗi
của mình không hơn gì người đàn bà mà họ lên án.
S26. He who lives by the sword dies by the sword: Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm.
Nguồn gốc: Mathiơ (Matthew) 26:52.
Chúa Giê-xu
bảo đệ tử của mình cất gươm vào vỏ, không được dùng bạo lực.
Tục ngữ: Sinh nghề, tử nghiệp (Sinh ư nghệ, tử ư
nghiệp 生於藝
[艺] 死於業[业]).
S27. Swords
into plowshares: gươm thành lưỡi cày.
Nguồn gốc: Êsai (Isaiah) 2:4 and Micah 4:3
Lấy gươm
rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Vũ
khí thành nông cụ vì là thời bình.
(Trong khi đó, tình trạng ngược lại thấy ở Joel 3:10.)
T
T1. Lead us not into temptation: xem L8.
T2. If a THING is worth doing, it’s worth doing
well: Nếu một điều đáng làm, thì nên làm cho tốt.
Nhiều người
cho câu nói trên có Nguồn gốc: 1Côrinhtô (Corinthians) 14:40
“Let all things be done decently and in order” (ASV) “Hãy làm mọi sự một cách thích đáng và trong
trật tự” (BDM).
T3. Thirty
pieces of silver:
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 26:14-15 “Bấy giờ có một người
trong mười hai sứ đồ, tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt (Judas Iscariot), đến tìm các
thầy tế lễ cả, mà nói rằng:
Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả
cho nó ba chục bạc. Từ lúc đó, nó tìm dịp tiện để nộp Đức
Chúa Jêsus” (BTT).
30 thỏi bạc có nghĩa một số tiền đưa ra để dụ một người nào đó phản bội thầy hoặc đồng môn.
30 thỏi bạc có nghĩa một số tiền đưa ra để dụ một người nào đó phản bội thầy hoặc đồng môn.
T4. THORN in the flesh: cái
giằm xóc trong thịt.
Nguồn gốc:
2 Côrinhtô (Corinthians) 12:7-9
“Cái giằm xóc vào thịt” có thể một cơn đau thể xác, một
nỗi đau khổ tâm thần, một thử thách, một hoạn nạn để người bị giằm học tánh
khiêm nhường, vâng phục và nhờ cậy Chúa.
Nguồn gốc nhóm chữ này trong IICô-rinh-tô 12:7-9 “Vậy nên, e rằng tôi
lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã
cho một cái giằm xóc vào thịt tôi,
tức là quỉ sứ của Sa-tan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo. Đã ba
lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi. Nhưng
Chúa phán rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn
trong sự yếu đuối. Vậy, tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu
cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi.”
Theo Wikipedia, một bách khoa tự điển trên internet,
“thorn in the flesh” diễn tả một cái gì gây đau đớn hay đau khổ dằng dai, không
thể thoát được. Sự hiện diện của nó có
mục đích gì đó “there is something that is painful to me, and it’s not going
away; it’s supposed to be that way for some reason”.
Nguồn gốc: Truyền Đạo (Ecclesiastes) 3:2.
Mọi vật đều có thời điểm, kỳ hạn của nó, ngay cả sự sống
và sự chết.
Có nhiều châm ngôn, ngạn ngữ nói về thời gian, thời điểm
trong tiếng Anh: There is a time and place for everything; Time and tide wait for no man; Time flies;
Time is a great healer; Time is
money; No time like the present; Time will tell; Time works wonders…
Trong “Kinh Thánh Diễn Thơ”, Ông Trình Hữu Lân (Cần Giuộc,
Long An) diễn tả đoạn Truyền Đạo này (câu 2-8) như sau: Mọi vật
đều có kỳ, Sanh ra để rồi chết, Kỳ ốm đau bệnh tật, Kỳ khỏe mạnh vui mừng, Kỳ
nhổ và kỳ trồng, Kỳ chữa lành kỳ giết, Kỳ phá kỳ xây cất, Kỳ khóc lóc kỳ cười,
Kỳ nhảy múa vui tươi, Kỳ âu sầu than vãn, Kỳ ôm ấp sung sướng, Kỳ tan vỡ lìa
xa, Kỳ tìm kiếm thiết tha, Kỳ lạnh lùng bỏ mặc, Kỳ giữ lấy thật chắc, Kỳ ném bỏ
xa lìa, Kỳ sửa soạn vá may, Kỳ âm thầm xé rách, Kỳ giữ gìn bí mật, Kỳ bày tỏ
truyền ra, Kỳ yêu dấu thiết tha, Kỳ sẵn lòng ghét bỏ, Kỳ không đến kỳ có, Kỳ
đánh kỳ hòa bình, Đều ở trong chương trình, Đức Chúa Trời điều khiển.
T6. Keep your TONGUE from evil (and your lips
speaking lies):
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 34:13 “Hãy giữ
lưỡi mình khỏi điều ác, Và giữ môi mình
khỏi lời dối trá” (BDHĐ).
Câu này cũng gặp trong 1 (Phiêrơ) Peter
3:10 và Tít (Titus) 3:2 “To speak evil of no man..” (ASV). “Chớ nói xấu ai..” (BTT).
Lưu Nhất Minh (1734-1821), sống đời nhà Thanh, có viết bài
Khẩu Thiệt Quan trong sách Thông
quan văn 通关文 : “Học trò thế gian hồ đồ chẳng biết lợi hại,
coi động khẩu thiệt là chuyện nhỏ, lấy lợi khẩu làm tài năng, lấy bẻm mép làm
đắc ý, hoặc phô diễn điều dở của người, hoặc khoe điều hay của mình, hoặc nói
lời dối trá, hoặc bàn chuyện thị phi, hoặc nói trước rồi sau thất tín, hoặc nói
suông mà làm chẳng ra gì, hoặc nói ngông mà gây tai vạ, hoặc bàn cao mà không
sự thực, hoặc nguyền rủa giữa ban ngày, hoặc nói khéo xiểm nịnh, hoặc vì lời
nói mà hỏng việc, hoặc vì lời nói mà làm tổn thương đến người, tất cả những thứ
đó đều là những lời nói vô ích, hơn nữa còn có hại…”
Sách Hán Học Danh Ngôn có ghi câu Cách Ngôn: “Ác mạc
đại ư túng kỷ chi dục, Họa mạc đại ư ngôn nhân chi phi” 堊莫大於縦[纵]己之欲 禍莫大於言人之非 (Ác không gì lớn bằng làm thỏa cái dục của mình,
Họa không gì lớn bằng nói xấu người khác).
Xem S20.
T7. Silver-tongued:
Nguồn gốc: Châm
Ngôn (Proverbs) 10:20a “the tongue of the just is as choice silver” lưỡi người
công chính như bạc quý. Xem A6.
T8. The
TOWER of Babel: xem Babel B1.
Nguồn gốc: Sáng Thế Ký (Genesis 11:9)
T9. Lay not up for yourselves treasures upon earth:
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 6:19-21 “Các con đừng tích trữ của cải dưới đất là nơi
mối mọt và gỉ sét làm hủy hoại và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ của cải các con ở
trên trời là nơi mối mọt không thể hủy hoại và kẻ trộm cũng không khoét vách
lấy được. Vì của cải các
con ở đâu, lòng các con cũng ở đó” (BDM).
Chúa Giê-xu khuyên chúng ta đừng quá lo tích trữ vật chất
trên trần gian mà nên nghĩ đến đầu tư trên thiên đàng.
“Của cải dưới đất hay hư,
Anh em hãy nhớ đầu tư trên trời.”
V
V1. Valley of the shadow of death: Xem
P9.
Nguồn
gốc: Trong Thi-Thiên (Psalm) 23,
thường được dịch là “trũng bóng chết”. Thi-Thiên
(Psalm) 23:4 “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, Tôi sẽ chẳng sợ tai họa
nào; vì Chúa ở cùng tôi.” Hiện nay, “valley
of the shadow of death” được dùng để chỉ những hoàn cảnh nguy ngập, thập tử
nhất sinh.
V2. Vanities
of vanities; all is vanity: hư không
của sự hư không, thảy đều hư không. (Xem
thêm D15).
Nguồn gốc: Đây
là lời của vua Solomon, con vua David nhập đề sách Truyền Đạo (Ecclesiastes) để
chỉ mọi thứ trên đời đều là hư không.
Câu này làm chúng ta nhớ đến ý của bài kệ “Lục Như” trong
Kinh Kim Cương:
Nhất thiết hữu vi pháp 一切有為法
Như mộng, huyễn, bào, ảnh 如梦幻泡影
Như lộ, diệc như điện 如露亦如電
Ưng tác như thị quán.
應作如是觀
Châu Sa phỏng dịch:
Mọi
thứ ở trên đời
Như
bọt, bóng, mộng, mơ,
Như
sương rơi, điện chớp
Hãy
suy gẫm lại coi.
Tuy nhiên, trong cuối sách Truyền Đạo, tác giả khuyên:
“Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài; ấy là trọn phận sự của
ngươi.” (Fear God, and keep his
commandments: for this is the whole duty of man).
V3. Vengeance
is mine: “Sự trả thù thuộc về Ta.”
Nguồn gốc: Phục-Truyền (Deuteronomy) 32:35 trong kinh
Cựu Ước. Thánh Phao lô nhắc lại trong
sách Roma: “Hỡi kẻ rất yêu dấu của tôi
ơi, chính mình chớ trả thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa
Trời; vì có chép lời Chúa phán rằng: Sự
trả thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo ứng.” (Roma 12:19). Chữ
“Ta” đây là Đức Chúa Trời. Qua câu này,
con dân Chúa không cần nghĩ cách trả thù một ai, không cần phải “thế thiên hành
đạo” 替天行道
vì họ giao phó những bất bình, những nỗi niềm oan ức cho Chúa giải quyết.
V4. Voice of one crying in the wilderness (tiếng
kêu trong đồng vắng):
Nguồn gốc: Giăng
(John) 1:23. Giăng Baptit tự giới thiệu ông chỉ là phát ngôn viên của Chúa Cứu Thế Giê-xu,
ông kêu gọi mọi người ăn năn, dọn đường cho Cứu Chúa Giê-xu đến.
W
W1. For
the WAGES of sin is death:
Nguồn gốc: Rôma
(Romans) 6:23 “Vì
tiền công của tội lỗi là sự chết;
nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus
Christ, Chúa chúng ta” (BTT). Mọi người
chết vì tội lỗi mình, nhưng Đức Chúa Trời dành sẵn cuộc sống đời đời cho ai mở
lòng tin nhận Cứu Chúa Giê-xu. Xem chữ “Sin” S11, S12, S13.
W2. I am the WAY, the truth, and the life: “Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống.”
Nguồn
gốc: Giăng (John) 14:6 “I am the way and the truth and the life. No one comes to the Father except through me”
(NIV). (Câu 14:5 Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi chẳng
biết Chúa đi đâu; làm sao biết đường được?) 14:6 Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng:
Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống;
chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha. (BTT).
W3. WEALTH
gained by dishonesty will be diminished but he who gathers by labor will
increase: “Của phi nghĩa giảm dần,
nhưng ai dùng sức làm lụng thì của cải sẽ tăng.”
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 13:11
Của lao nhọc ngày một tăng,
Còn tiền phi nghĩa mất dần đi thôi.
Tục ngữ Việt Nam: Hoạnh
tài bất phú; Của phi nghĩa có giàu đâu; Của phù vân không chân hay chạy.
Của làm ra để trên gác, Của cờ bạc để ngoài sân, Của phù vân để ngoài
ngõ; Của thiên trả địa. Ca dao:
Tiền
buôn tiền bán thì để trong nhà,
Tiền cờ tiền
bạc thì ra ngoài đồng.
*
Tin nhau buôn bán cùng nhau
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời
Hay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền.
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời
Hay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền.
W4. WEALTH makes many friends: Giàu thêm bạn. “Khi dư dả bạn tới, khi chới với bạn lui.”
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 19:4
Khi giàu sang
có đông bằng hữu
Lúc nghèo hèn
bạn rủ nhau đi.
Ca dao:
Khi hèn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn anh em.
*
Bần cư náo thị vô nhân
vấn
Phú tại thâm sơn hữu
khách tầm
貧居鬧市無人問
富在深山有客尋
W5. Your
WILL be done: Ý Cha được nên.
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 6:10; Luca (Luke) 22:42 “Cha, nếu Cha
muốn, xin cất chén (CUP) nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không
theo ý tôi!” (Chén: có nghĩa bóng là một điều thống khổ phải chịu
“terrible agony”). Xem C16. L8.
W6. WINE is a mocker, strong drink is a brawler
and whoever is led astray by it is not wise.
Nguồn
gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 20:1 “Rượu
có thể gây nhạo cười, hung bạo, Ai uống
say thành hỗn láo mất khôn” (TCTK).
Tục ngữ
Việt Nam: “Rượu vào, lời ra”. Người Âu Mỹ có câu: “When the wine is in, the
wit is out.” Người Mễ Tây Cơ kể 3 giai
đoạn của người khi uống rượu: ban đầu là con sư tử (hào khí ngất trời),
kế đó là khỉ vượn (hứng chí, quơ tay
múa chân), sau cùng là con heo (bẩn
thỉu, nằm dài): (los tres estados de la
embriaguez son: león, mono y cerdo).
W7.
The old WINE is better:
Nguồn gốc:
Luca (Luke) 5:39 “Rượu cũ ngon hơn” (BDHĐ). Người ta thường nói
có 3 thứ cũ mà tốt là: sách cũ, rượu cũ,
bạn cũ.
W8. The WISDOM of Solomon: Sự khôn ngoan của Solomon.
Nguồn gốc: 1
Các Vua (Kings) 4:29-34 “Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn
ngoan, sự thông sáng rất cao, cùng lòng rộng rãi như cát trên bờ biển. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn
trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người phương đông, và sự khôn ngoan của người
Ê-díp-tô. Người khôn ngoan hơn mọi người, khôn ngoan hơn
Ê-than, người Ếch-ra-hít, hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai
Ma-hôn; danh tiếng người đồn ra trong các dân tộc chung quanh. Người nói ba ngàn câu châm ngôn, và làm một
ngàn năm bài thơ. Người luận về cây cối,
từ cây bá hương của Li-ban cho đến chùm kinh giới mọc ra nơi vách; người cũng
có luận về loài vật, chim, loài côn trùng, và cá. Có kẻ từ các dân tộc đến nghe sự khôn ngoan
của Sa-lô-môn, và các vua ở thế gian mà đã nghe nói về sự khôn ngoan của người,
đều sai sứ đến.” (BTT).
W9. Wise as serpents: khôn như rắn.
Nguồn
gốc: Mathiơ (Matthew) 10:16
Các
con đi đó, đi đây,
Như
chiên lạc lõng giữa bầy sói hoang
Hãy như loài rắn khôn ngoan
Hiền
lành, đơn giản như đàn chim câu.
W10. WOLF also shall dwell with the lamb. “Sói sống với chiên”.
Nguồn gốc: Êsai
(Isaiah) 11:6 diễn tả khi Chúa trở lại
trần gian này:
Muôn sói sẽ ở cùng chiên
Hùm
beo sẽ sống chung miền với dê
Sư
tử giỡn với bò bê
Trẻ
con dẫn chúng đề huề dạo chơi.
W11. WOLF in sheep’s clothing: xem SHEEP (S8)
W12. Fruit of the WOMB: “Bông trái của tử cung”.
Nguồn
gốc: Thi-Thiên (Psalm) 127:3
Bông trái của tử cung là con cháu, tức là cơ nghiệp, là
phần thưởng của Đức Chúa Trời
W13. He who does not WORK, neither should he eat:
Nguồn gốc: 2
Têsalônica (Thessalonians) 3:10 “Nếu ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn”
(BDM).
W14. The WORKER deserves his wages: Xem chữ O2.
Nguồn gốc: 1
Timôthê (Timothy) 5:18
Bò
đạp lúa không nên khớp miệng
Người
làm công phải được trả tiền.
W15. Do not WORRY about tomorrow: Xem D2.
Nguồn gốc: Mathiơ
(Matthew) 6:34 “Vậy, chớ
lo lắng chi về ngày mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày
nào đủ cho ngày ấy” (BTT).
Có câu: “Tomorrow is another day”. Người lo lắng như ngồi ghế xích đu, coi bộ bận rộn lắm nhưng không đi đến đâu hết.
Có câu: “Tomorrow is another day”. Người lo lắng như ngồi ghế xích đu, coi bộ bận rộn lắm nhưng không đi đến đâu hết.
W16. Soft answer turneth away WRATH: Câu đáp dịu dàng làm nguôi cơn giận. Xem
thêm A4, A6.
Nguồn gốc: Châm-Ngôn (Proverbs) 15:1.
Lời nói dịu dàng làm nguôi cơn giận,
Lời
nói xẳng làm cơn hận cháy phừng.
Ca dao Việt Nam:
Chồng giận thì vợ
bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
*
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì.
*
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì.
*
Chim khôn hót
tiếng rảnh rang,
Người khôn nói
tiếng dịu dàng dễ nghe.
*
Chim khôn tránh bẫy tránh dò
Người khôn mở miệng đắn đo từng lời.
W17. Slow to wrath: James 1:19. Xem thêm S19.
W18. Do not let the sun go down on your wrath: xem
A4.
X &
Y
XMAS và CHRISTMAS
Chúng tôi
xin trích đoạn này trong sách Giải Đáp
306 Câu Hỏi của Tín Hữu Cơ Đốc do Ông Diệp
Dung biên soạn: “Chữ Christmas gồm
có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng
chịu xức dầu) là tước vị của Chúa Giê-su.
Chữ Mas là chữ viết ngắn của Mass. Mass có nghĩa là thánh lễ. Khi chữ Christ và Mas viết dính liền lại với
nhau thành ra chữ Christmas. Christmas
có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là lễ Giáng Sinh của Đức Chúa Giê-su
Christ. Cũng có người viết lễ Giáng Sinh
bằng Anh ngữ là Xmas. Cách viết này làm
cho nhiều người hiểu lầm, vì họ cho rằng cách viết đó là cố ý loại bỏ Đấng
Christ ra khỏi lễ Giáng Sinh. Nhưng thật
ra, chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy-Lạp viết chữ Christ là Christos,
Xplotos hay Xristos. Người ta dùng phụ
âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xplotos, rồi thêm chữ Mas kế cận
để thành chữ Xmas. Xmas cũng có nghĩa là
lễ của Đấng Christ như chữ Christmas vậy.”
Do not be YOKED with unbelievers:
Nguồn gốc: 2 Côrinhtô (Corinthians) 6:14a “ Chớ mang ách chung với những kẻ không
tin” (BDHĐ).
Câu này thường dùng để khuyên những người trẻ khi lập gia
đình nên tránh kết hôn với người không cùng niềm tin với mình.
Mục lục theo sách thứ tự Kinh Thánh:
Chữ và số trong dấu
ngoặc vuông như [B5] chỉ số đoạn.
Sáng Thế Ký (Genesis) 1:1 [B5] [E2];
1:28 [F14]; 2:18
[A3]; 2:24 [F7]; 3:19 [D15]; 4:9 [B16];
11:1-4 [B1]
Xuất-Hành (Exodus) 20 [I1]; 20:7 [N1]; 20: 8 [S1]; 20:12 [H8] ;
20:17 [C11]
Lê-vi ký (Leviticus) 16 [S3]
Dân Số ký (Numbers) 6:24 [L6]
Phục-Truyền (Deuteronomy) 8:3
[B14]; 19:21 [E7]; 25:4 [O2]; 32:35 [V3]
1 Các Vua (Kings) 4:29-34 [W8]
Gióp (Job) 1:21 [L7]; 19:20 [S14]
Thi-Thiên (Psalm) 8:2 [B2]; 17:8 [A5]; 19:1 [H5];
22:1 [F15]; Thi-Thiên 23 [P9] [V1]; 23:5
[C15]; 32:11 [R1]; 33:1 [R1];
34:13 [T6]; 55:22 [C9]; 91:11-12 [D4];103
[B6]; 118:24 [D1]; 119:105 [L1]; 127:3 [W12]; 141:10 [P5].
Châm-Ngôn (Proverbs) 9:17-18 [S24]; 10:12 [S13];
10:4 [D6]; 10:20a [T7]; 11:24 [B15]; 13:11 [W3]; 13:12 [H9];
13:24 [C4];
15:1 [W16]; 16:18 [P8]; 17:28 [F9];
19:4 [W4]; 20:1 [W6]; 20:29 [G15]; 22:1 [N2]; 22:6
[C5]; 24:5 [K1]; 25:21-22 [H3]; 25:11 [A6];
26:4-5 [F10]; 26:11 [D11]; 26:17 [D10];
26:27 [P5]
Truyền Đạo (Ecclesiastes) Chương 1 [V2];
1:9 [N4]; 3:1 [S4]; 3:2 [T5];
5:12 [S15]; 8:15 [E3];
9:4 [D12]; 11:1 [B15]; 12:12 [B10].
Êsai (Isaiah) 2:4 [S27]; 11:6 [W10];
22:13 [E4]; 53:6
[S7]; 53:7 [S10]
Giêrêmi (Jeremiah) 13:23 [L2]; 31:29-30 [S17]
Đaniên (Daniel) 2:33-45 [F4];
5:5-28 [H2]
Hosea 8:7 [S18]
Joel 3:10
[S27]
Giôna (Jonah) 4:8 [D5]
Micah 4:3 [S27]
Aghê (Haggai)
1:6 [H7]
Mathiơ (Matthew) 1:19
[S13];
Matthew 2 [S23]; 3:17 [S16]; 4:4 [B14]; 4:5-6 [D4]; 4:19 [F6] [F8]; 5:3-10 [B4]; 5:5 [M2]; 5:9 [P2]; 5:11 [B7]; 5:13 [S2]; 5:15 [L4]; 5:38-39 [C3] [E7]; 5:41
[G7]; 5:44-46 [E5]; 6:3 [H1];
6:9-13 [L8]; 6:10 [W5]; 6:11 B12 [G3]; 6:12 [F11]; 6:19-21 [T9];
6:22 [E6]; 6:24 [M1]; 6:28 [L5];
6:30 [H6]; 6:34 [D2] [W15]; 7:1
[J1]; 7:6 [P3]; 7:7 [A7];
7:12 [D9]; 7:13-14 [G1]; 7:15 [S8];
8:22 [D3];
10:16 [W9]; 10:42 [C14]; 11:15 [E1];
11:28 [C9]; 12:33 [F12]; 15:4
[H8]; 17:5 [S16]; 17:20 [F1]; 19:6
[F7]; 19:24 [E8]; 19:30 [F5];
21:16 [B2]; 22:37 [L11]; 22:39 [N3]; 23:2-3 [D8]; 23:24 [G5]; 25:32-33 [S6]; 26:14-15 [T3]; 26:41 [S22]; 26:52 [S26]; 27:46 [F15];
Mác (Mark) 2:27 [S1]; 3:24-25
[H10]; 10:14-15 [C8]; 12:17
[C1]
Luca (Luke) 2:10 [G12]; 2:14 [G6]; 4:23-24
[P4]; 5:39 [W7]; 6:20
[P6]; 6:29 [C3]; 6:39 [B8];
9:23 [C12]; 9:48 [C8];
10:33 [G13]; 11:3
[B12]; 12:19-20 [E3];
12:48 [G4]; 15 [C2]; 22:19 [R2]; 23:34 [F3];
22:42 [C16]; 22:42 [W5]; 22:67
[S10]
Giăng (John) 1:23 [V4];
3:16 [G8]; 3:3 [B11]; 5:14 [S11] ;
6:35; 6:48 [B13]; 7:24
[J1] ; 8:7 [S25]; 8:11 [S11; 8:12 [L3];
11:25 [R3]; 14:6
[W2]; 14:15 [C10] ; 20:24-29 [D14]; 20:29b [B7],
Công Vụ (Acts) 20:35
[G2]
Rôma (Romans) 3:23
[S12]; 6:23
[W1]; 8:28 [A2]; 12:19 [V3]; 12:20
[H3] ; 12:21
[G10]
1 Côrinhtô (Corinthians) 9:9 [O2]; 9:22
[A1]; 11:24 [B9]; 13 [L10]; 13:11
[C6]; 13:13 [F2]; 14:40 [T2]; 15:32 [E4]
2 Côrinhtô (Corinthians) 6:14a [Y1]; 12:7-9 [T4]
Galati (Galatians) 5:22-23 [F13]; 6:7 [S18]
Êphêsô (Ephesians) 4:2-3 [P1]; 4:26
[A4];
5:30 [M3]; 6:1 [O1]; 6:2
[H8]
Philíp
(Philippians)
4:4 [R1]
Côlôse (Colossians) 3:13 [B3]; 3:20 [O1]; 4:6 [S21]
1
Têsalônica 5:16-18 [R1]
2 Têsalônica 3:10 [W13]
1 Timôthê (Timothy) 5:18 [O2] [W14]; 6:10
[I1] [M4]
Tít (Titus) 3:2 [S20] [T6]
Hêbơrơ (Hebrews) 1:9
[G9]
Gia-Cơ (James) 1:19-20 [H4]
[S19]; 5:20 [S13]
1 Phiêrơ (Peter) 3:10 [T6]; 4:8 [S13]; 5:4 [C13]
1 Giăng (John) 4:8 [L9]
Khải Huyền (Revelation) 3:20
[D13]; 22:7b [B7]
Mục Lục Tham Khảo (Index)
anh em: B16
ách chung: Y1
ánh sáng: L3, L4
ăn: E3, E4, H3, W13
ăn năn: H3
Babel: B1
bánh: B12, B13, B14
bàn tay: D6, H1
B15, G3, H7
bất hiếu: H8
bê mập: C2
beo: L2
bình an: G6
bless: B6, B7
bò: O2
bụi: D15
Caesar: C1
cao niên: G15
carpe diem: D2
cây: F12
con ngươi của mắt: A5
của phi nghĩa: W3
cửa: D13, G1
cha ăn mặn: S17
chăm chỉ: D6
chân đất sét: F4
chén: C14, C15, C16
chết: D5, E4, S26, W1
chỉ mành treo chuông: S14
chia rẽ: H10
chiên: S6, S7, S8, S10, W10
chim: W16
chịu đựng: B3
cho: G2, G3
chó: D10, D11, P3
chôn: D3
dại: F9, F10
danh: N1, N2
dạy con: C4, C5
dê: S3, S6
đắn đo: W16
đất: E2, L7, M2, S2
đầu: G15, H3
đầu tư: T9
đèn: L1, L4
đến với Chúa: C9
điều răn: C10, L11, N3
đoán xét: J2
đui mù: B8
đức tin: F1, F2, M4
đường đi: W2
gánh nặng: C9
gậy ông đập lưng : P5
gieo gió, gặt bão: S18
giằm xóc: T4
giấc ngủ: S15
giận: A4, W16, W17, W18
gò má: C3, E7, G7
good Samaritan: G13
gươm: S26, S27
heo: P3
hi sinh: G8
hi vọng: F2, H9
hiệp lại: A2, G11
hiếu kính: H8
hình tượng: I1
hoa huệ: L5
hòa bình: P1
hòa giải: P2
hỏi: A7
hố: B8, P5
hồ nứt: H7
hội viên: M3
hột cải: F1
hư không: V2
im lặng: S10
kêu cầu: A7
kiêu ngạo: P8
Kim Thánh Thán: N4
kỷ sở bất dục: D9
khẩu thiệt: T6
khôn: W8, W9
lạc đà: G5
làm: D8, D9, W13
lễ Tiệc Thánh: B9
lìa bỏ: F15
lo lắng: W15
Lord’s Prayer, The: F11, L8
lỗ kim: E8
lỗi: S13
Lời Chúa: B14, S21
lời nói: A6, S19, W16
luật vàng: D9
lực bất tòng tâm: S22
lưỡi: T6, T7
ma quỷ: D4
magi: S23
mão triều thiên: C13
mắt: E7, L7
mặt trời: N4
miếng khi đói: C14
miệng trẻ: B2
mồ hôi: D15
một mình: A3
một thịt: F7
muối: S2, S21
nay còn, mai mất: H6
ngậm máu phun..: S20
Nguyễn Trãi: N3
no mất ngon: A4
nói: A6, D8, S19
nói xấu: S20, T6
Nolte, Dorothy: C5
nước Trời: F5, P6
ngày: D1, D2, W15
ngư phủ: F6
người chết: D3
nghe: H4
nghèo: P6
nghi: D14
nhận: G2
nhập gia tuỳ tục: A1
nhịn: B3
nho: G14,
S17
nhớ:
D7, R2
nhu mì:
M2
ở bầu thì tròn: A1
ở xởi lởi:
B12, G2
phạm tội:
S11, S12
phước:
B4, D14, P6
răng:
E7, G14
roi:
C4, R4
rượu:
W6, W7
Sabbath day:
S1
sách:
B10
sanh lại:
B11
sinh nghề, tử nghiệp: S26
sói: S8,
W10, W11
sống lại:
R3
sư tử:
D12, W10
sư Vạn Hạnh:
D15
tai:
E1, H4
tái sanh:
B11
táo vàng:
A6
tâm thần:
S22
tiền:
M1, M4
tiền công:
O2, W1, W14
tìm: S5,
A7
tin lành:
G12
tình thương:
F2, J, L9, L10, N3, S13
tóc: G15
tội: S13, W1
túi lủng:
H7
tha thứ:
F3, F11, J, S11, S25
tham muốn:
C11, M4
tháp Babel: B1, T8
thân thể:
B9, S22
thần tài:
M1
thầy lang:
P4
Thi-Thiên 23: P9
thiện:
G9, G10, S13
thời:
S4, T5
trả thù:
V3
trái:
F12, F13, W12
trái cấm:
S24
trẻ con:
C6, C7, C8, W10
uống:
E3, E4
vui:
E3, E4, G12, R1
vác thập tự:
C12
vinh danh:
G6, G15, H5
xích tử chi tâm: C8
ý tại ngôn ngoại: H4
Địa
chỉ liên lạc:
Châu
Sa
8991
Blaine Meadows Dr.
Jacksonville, FL
32257-1719
Email: hiepnchau@gmail.com
Bài viết rất hay và bổ ích. Cảm ơn Anh rất nhiều.
Trả lờiXóa